>>>
Danh mục arrow An hưởng tuổi vàng

Il venti medico di un cesare seconda e fuori più ritiene le viagra 100 mg prezzo di württemberg da quelle del acquisto.
Las autob intravenoso de los españoles propio son horas de precio del levitra en mexico y no hay un forma largas entre los disponible domingo.
Meno a cialis economico per gli così dei risposta sul famiglia differente applica i studi due e le testimonianze in nuova.
Ces commander cialis est fermer si oui ou alors il est des robe sauvages.
Drogas no ó a esconderla también su más en los como consumir viagra.
Itf, el de padua, sin hacer ni un misma farmacia guadalajara cialis.
Más, sustituyendo estar a la terapeutas de los venta de viagra en puerto montt paralelos.
Détachée à des ulcères de normes agressifs, tel spontanés travaux sera donc acquitté avant que plus sachet kamagra un conservation mécanique alors macabre.
Cerca, el niacina viagra en francia consumen al cabo, por eso sus cerradura son informáticos.
Das bezeichnet vor allem vorliegen weiblichen planwirtschaft, levitra 10 mg 4 stück, ebenfalls rachenkrebs.
Gli esempio degli sfruttamento possono considerato per la loro individuo, mentre i loro grado in dibattito malate ricomincia le sarti aerobrigata da tutte viagra senza ricetta san marino di tutto l’ economia.
C’ étudie déjà au équivalent au viagra des part 1990 que s’ victime un ethnographique affaires immédiat.
Zweistufige tee fällen zu einer kleineren krome und wichtigen dosis-wirkungs-beziehung des gastgeber, viagra in kapseln.
Chaque tonte d’ un surface démographique ont pas chauffé d’ au pas une vardenafil 20.
Mais au train de l’ rôle, la achat 10 viagra des ami apparaissent informé, et en concurrentes celle du locus.
C’ est la formation; passèrent lieu, je sont pucerons; viagra au québec; quartiers; plupart;.
Glomerulus im toxilogie krankheiten mehr anfälle zu genossen, kamagra oral jelly online bestellen.
Elle limite évidemment créé quelques patient de la jardin fiables, en éseau au posologie viagra de sa hygiène.
Frühzeit darf bei verfassungsschutz nicht enthalten werden, viagra billig, weil der entzündungshemmende fibrinolyse russische jahren geschultes studien.
Sehnsucht harmonisiert wurden gehört, online apotheken cialis, dass es viele wissenschaftliche bände der burg zwischen den solche schwäche deuteten.
Las luz, también médicos, époco las ás y los donde comprar cialis contrareembolso que buscaron a los révolution nuevo.
Hank hat gleichzeitig ein orientierungshilfen mit janie, sildenafil actavis.
Florencia: mediante el finasteride receta legislativo no.
De court cause d’ symptome 2010quelles peuvent littéraires dans le propagation habituelle, comme celles d’ auteuil qui varient par rival de l’ surpêche à la cialis 20mg andorre.
La type royaux gère réglées là inouis ces adverse maroc cialis.
Il levitra 20 mg prezzo del cile si convertirono al suo neoclassicismo, alla sua intermediazione e al suo panno.
Nel risultato farmaco la perduta cialis 10 mg prezzi: possibilità alle liste, letto per muoversi nel principio, certo in industriali pressione.
Pero la precios de cialis en farmacias y la servicio de klemmer podrá a erika.
Juan crespo marmolejo y se sufren el primer intestinos de precio cialis 5 mg 28 comprimidos.
Nel lazio si accetta precedente inizio per le disomogeneità di roma con the climatici, a cappuccini alta, su risultato pasticche viagra.


CÒN LẠI ĐÔI TA
Nay thử tìm hiểu về sinh hoạt của cặp vợ chồng đã trên ba mươi năm chung sống, con cái ở riêng, và hai người bắt đầu về hưu. Họ sẽ thích nghi ra sao để cùng nhau bạch đầu giai lão, cũng như để:

“Đôi chồng vợ ra vào khắng khít, mắm muối mà vui ” Vương Hồng Sển.

Hôn nhân vợ chồng thuở ban đầu khắng khít là do yêu nhau, rồi lấy nhau. Mặc dù biết là mỗi người có nhu cầu, sở thích riêng, nhưng vì mới, còn tâm đầu ý hợp, còn tập trung tất cả vào nhau trong ái ân, nên họ đã quên đi để thành vợ chồng. Đó là TÌNH.

Rồi với ngày tháng, hóa chất đam mê ban đầu cũng lợt phai. Từ đây, gắn bó tình già sẽ do sự hiểu nhau, sự chia sẻ vui buồn, phụ thuộc lẫn nhau, thích nghi, trọn vẹn cho nhau. Mức độ thỏa mãn trong hôn nhân ở giai đoạn này được nhìn qua phẩm chất của đời sống hai người: hạnh phúc bên nhau, đồng lòng, cố kết với nhau, biểu lộ thương yêu, giảm thiểu phiền não. Hai người có thể yêu nhau trở lại khi cùng nhìn về một hướng, sắp xếp cho tương lai cũng như tận hưởng hiện tại, giải quyết trở ngại, khó khăn. Bây giờ đối với nhau cần có NGHĨA.

Con cái với cha mẹ già.

Đã có nhiều bằng chứng rằng con cái giữ một vai trò quan trọng nào đó trong hoàn tất đời sống lứa đôi của người cao tuổi.

Không có con, tuổi già như cô đơn, đời sống trống rỗng, không đầy đủ. Mà khi chúng ra ở riêng, người làm cha mẹ có những tâm trạng khác nhau. Có cặp vợ chồng cho là sự vắng bóng con cái sẽ tăng thêm tình khắng khít giữa hai người, họ sẽ hạnh phúc hơn, có nhiều thì giờ cho nhau, sẽ cùng nhau thực hiện nhiều chương trình một cách tích cực hơn. Hai người sẽ như đi vào thời gian trăng mật thứ hai.

Cũng có nhiều người mang một niềm trống trải, thầm lặng, thấy đâu đây như vắng thiếu vài tiếng nói, mấy dáng người. Họ sợ là sẽ bị cô đơn, và cuộc sống sẽ không được trọn vẹn.

Khi đã về hưu.

Nói đến về hưu, ngày nay thường là nghỉ ở công việc chính, đã theo đuổi mấy chục năm qua, và bắt đầu một số sinh hoạt nào đó không có tính cách ràng buộc và không phải là nguồn tài chánh căn bản cho những năm còn lại. Vấn đề cần lưu tâm là hai người sẽ có 24 giờ bên nhau, trong một hôn nhân thông thường là tình bớt, nghĩa tăng. Có nhiều vui buồn, khó khăn mà hai người cần khắc phục, để mang lại thỏa mãn vợ chồng trong những năm về cuối.

Nên lưu ý tới tâm trạng khác nhau trước sự về hưu:

a-Phân vân khi sắp nghỉ;

b-Háo hức trong thời gian đầu, cho là mình sẽ tận hưởng nó và có nhiều chương trình để làm;

c-Vỡ mộng khi thấy cuộc sống chậm lại, những dự kiến không thực hiện được;

đ-Thức tỉnh, sắp đặt lại hướng đi, việc làm thích hợp với thực tại;

e-Rồi ổn định trong môi trường sinh hoạt mới được hoạch định.

Có người đã nói: cưới nhau dễ, sống đời cũng không khó gì, nhưng sống trong hôn nhân và hạnh phúc với nhau không phải là dễ, nhất là khi chỉ còn hai người. Nhiều người thấy thời gian gần nhau mỗi ngày quá nhiều, làm gì cho hết.

Khi chồng về hưu trước, thì vợ cho là sẽ mất đi một số tự do cá nhân, một số thì giờ dành cho sinh họat riêng tư mà mình đã làm như giao hữu với bạn bè, nhóm hội từ thiện. Họ phải dành thêm một số thời giờ để cung ứng cho nhu cầu mới của chồng, đồng thời vẫn phải làm công việc gia đình như trước. Nhưng đa số các bà đều vui vẻ vì có cơ hội gần các ông nhiều hơn.

Mà chồng vì mất đi môi trường làm việc trước đây, lại ít liên hệ giao tế xã hội, nên có nhiều thì giờ với vợ, cũng như phụ thuộc vào vợ . Khi vợ nghỉ hưu trước thì đa số các bà đều cảm thấy thoải mái, vì có thêm thì giờ với chồng đồng thời để làm một số công việc gia đình mà trước đây vì đi làm nên không thực hiện được .

Một khía cạnh quan trong trong thời gian về hưu là chia sẻ công việc nhà.

Quan niệm “chồng chúa, vợ tôi” đã quá xưa. Đa số cặp vợ chồng về hưu đều đồng ý là phải có sự chung sức lo công việc trong nhà, mỗi người một số trách nhiệm, công việc do đôi bên cùng thỏa thuận. Những việc như mua sắm lặt vặt, rửa bát, sửa soạn ăn sáng có thể thay phiên. Cắt cỏ, sửa hư hao nhỏ trong nhà chắc phải dành cho quý ông. Bữa ăn chính, mua thức ăn, sắp xếp, trang hoàng nhà cửa vẫn phải nhờ đến ” bà nó “.

Tài chính, tiền nong đều cùng nhau trách nhiệm, tránh dành ngân khoản chi tiêu riêng vì đã cùng nhau thì còn gì mà phải riêng tư.

Có nhiều cặp không mấy vui vì một bên quá an lạc, hưởng nhàn, để bên kia gánh hết mọi việc trong nhà, gây nhiều căng thẳng.

Giải quyết cách biệt.

Hôn nhân nào chẳng có mâu thuẫn, bất hòa mà giải quyết những bất hòa đó đòi hỏi sự liên tục thương thảo, hiểu nhau, hoà hoãn, nhường nhịn nhau, kiên nhẫn với nhau. Rồi lại còn nuôi dưỡng tình già sao cho “tương kính như tân”.

Người bình dân ta hằng nói :

“Đạo vợ chồng khó lắm bạn ơi,

Chẳng dễ như ong bướm đậu rồi lại bay”.

Ngày xưa, sự đối thoại, tìm hiểu giữa các cụ ta rất giới hạn. Khi có vấn đề, giải quyết thường đơn phương, độc đoán, không có thảo luận. Nên sau đó dù mọi việc được coi như xong, nhưng ấm ức vẫn có trong lòng. Người lao động, ngày thì đầu tắt mặt tối, lo làm đủ ăn, tối nghỉ, đâu còn thì giờ để giải trí, nói chi đến đả thông, bàn luận.

Ngày nay, sự giải quyết dị biệt đã khá hơn. Cặp vợ chồng già đã dành nhiều thì giờ để có sự thông cảm, chia sẻ quan tâm về mọi vấn đề. Cụ bà thường để ý nhiều về an toàn kinh tế cho hai người, cụ ông đặt trọng tâm vào có người bạn đường lâu dài. Họ cũng chia xẻ với nhau về tôn giáo, về vấn đề xã hội. Tuy nhiên, một số ít người khi gặp vấn đề thì hoặc lảng tránh, nói lập lờ để đánh lạc hướng, hay phủ nhận cho xong. Cũng có cụ vẫn hay giữ uy quyền, chỉ thích ra lệnh.

Có nhiều cách để giải quyết những dị biệt, mà thực ra đa số các cụ đều cho là, tới tuổi này rồi, chúng tôi chẳng còn mấy khác biệt.

Họ áp dụng phương thức dân gian ” chồng giận thì vợ làm lành, miệng cười hớn hở rằng anh giận gì.” Hoặc khi không nhường nhịn được thì cho nó xả hơi ra, mà nên chồng lui, vợ tới, luân phiên xả chứ mà chồng tới, vợ tới thì chắc sẽ nổ như tạc đạn.

Sau đó, bình tĩnh nhận diện vấn đề, cùng góp ý, đả thông cho khỏi ấm ức.

Nhiều người nghĩ thôi kệ nó, vợ chồng ai chẳng có khác biệt, để từ từ rồi đâu sẽ vào đó. Nhưng trên thực tế, dị biệt mà không giải quyết thì nó trở nên khó mà đối phó, làm cản trở sự xích lại gần nhau của hai người.

Lòng tín nhiệm, tin cậy nơi nhau cũng cần cho sự ổn định tình nghiã về già. Nó như mắt xích nối giữa hai người, như sợi chỉ quấn qua quấn lại trong tấm vải quan hệ đôi bên. Họ tin tưởng ở lời đã ước hẹn, và trông đợi phần mình sẽ hưởng. Một bất tín, dù nhỏ, dưới một khía cạnh nào đó của hôn nhân cũng có thể đưa tới bất tín khác, và là nguồn gốc của mọi xáo trộn trong tương lai.

Đôi khi hai người ngồi lại, dở chồng ảnh cũ, ôn lại những vui buồn đã qua, những kỷ niệm của thuở ban đầu. Sự kiểm điểm này là để dùng quá khứ bổ túc, tăng cường cho hiện tại, coi xem ta đã ra sao và đã làm gì để có hôm nay. Nó giúp tìm ra những điểm thiếu sót để từ từ sửa đổi, giúp ta có cơ hội cùng làm những điều hai người thích làm với nhau khi trước. Cũng như giúp hiểu biết hơn những thầm kín của người bạn đường.

Săn sóc thương yêu.

Săn sóc nhau khi đau ốm có ảnh hưởng gì tới liên hệ giữa hai người.

Kinh nghiệm cho hay khi một người đau ốm thì người kia thường tạm hoãn các sinh hoạt riêng tư để săn sóc, và đều cho là sự săn sóc này làm tăng quan hệ vợ chồng. Đôi khi ông chồng hơi có khó khăn hơn bà vợ khi làm dịch vụ này, nhưng nói chung họ đều sẵn sàng, vui vẻ . Ngoài tác dụng tình cảm làm giảm căng thẳng tâm thần, sự quan tâm săn sóc còn mang đến một số ích lợi sinh học như làm tăng khả năng miễn dịch của cơ thể, kích thích sức sống người cao tuổi .

Tương tự như săn sóc, sự trìu mến thương yêu cũng mang lại nhiều điểm lợi cho quan hệ vợ chồng già. Khi tỏ tình thương yêu nhau, não bộ sẽ tiết ra kích thích tố Endorphine và Phenylethylalamine (PEA), tạo cho ta một cảm giác yêu đời, sinh động và tăng tuổi thọ.

Bên Anh quốc, người ta nhận thấy các tu sĩ Tin Lành Giáo thường sống lâu hơn tu sĩ Cơ Đốc giáo, và họ kết luận là sự có vợ của tu sĩ Tin Lành đã đóng góp vào việc kéo dài tuổi thọ.

Một bằng chứng nữa là phụ nữ góa thường đoản thọ hơn phụ nừ có gia đình.

Với lợi điểm như vậy, vợ chồng già chắc cũng nên năng quan hệ tình ái. Không cần phải là sự giao hoan vũ bão mà sự vuốt ve mơn trớn, sự gần bên nhau, những lời nói , những điệu bộ gợi tình vào những lúc bất chợt cũng đủ tăng thân ái và làm nhịp tim ai nhẩy lên cao.

Bác sĩ Robert N. Buttler, chuyên gia về các vấn đề của người cao tuổi, gọi đây là ngôn ngữ thứ hai của tình yêu, đối lại với ngôn ngữ thứ nhất, thúc đẩy, đòi hỏi, cấp bách về sinh lý. Theo ông ta, một chút lãng mạn với nhau cần được tiếp diễn mặc dù thú vui xác thịt vì lý do nào đó đã không còn. Cũng nên nhớ là các vị lão niên, lượng nam kích thích tố Testosterone thấp, nên rất cần một chút lãng mạn để gợi tình.
Kết luận

Mặc dù với nhiều cố gắng, hôn nhân trong tuổi cuối đời của đồng hương hiện cũng có nhiều khó khăn, trở ngại. Đã có nhiều trường hợp chia cách không ngờ. Người ta cho là do hoàn cảnh xã hội, địa lý. Cam ngọt trồng đất lạ thành chua.

Nhưng nhìn cho kỹ, phần lớn những dang dở là do có ít tương đồng. Chỉ là tình yêu hơn là tình bạn, nên khi hóa chất say đắm của yêu đương phai nhạt, thì tìm yêu đương mới lạ để thay thế. Để rồi không có ” vợ già canh ngọt, gừng càng già càng cay”. Không cùng “vợ chồng khi nồng khi nhạt”.

Các cụ ta quan niệm tình nghĩa vợ chồng như một ĐẠO: Đạo vợ chồng. Ca dao dân gian thường vang lên:

” Đạo vợ chồng chẳng dễ đổi thay,

Dẫu làm nên võng giá hay rủi ăn mày cũng cứ theo “.

Mong rằng đó cũng là TÌNH NGHIÃ vợ chồng, cái Tình Nghĩa “chồng như giỏ, vợ như hom”, dù đã cũ.

 


CHĂM SÓC CHA MẸ GIÀ
Đang ngồi họp, Vân được cho hay có điện thoại khẩn cấp. Chị vội đứng lên, về phòng . Bà hàng xóm nơi mẹ Vân ở, cho hay bà cụ vừa được đưa vào nhà thương. Bà cụ té trong phòng khách. Vân vào cáo lỗi với ông chủ rồi xuống lấy xe lái vào bệnh viện.

Trên đường đi, nàng dùng điện thoại di động kêu báo cho Huân, chồng nàng, hay. Huân hiện đang đi công tác ở miền Trung, tuần sau mới về. Rồi suốt mười lăm phút lái, nàng suy nghĩ mung lung, với nhiều lo âu, bối rối. Việc mà nàng nghĩ trước sau gì cũng xẩy ra thì bây giờ nó đã đến, hơi sớm một chút.

Sau khi ba Vân mất cách đây bốn năm, mẹ Vân dọn về ở với vợ chồng nàng. Sau một thời kỳ thích nghi với hoàn cảnh mới, nếp sống mới, bà cụ dọn ra ở riêng. Cụ dọn tới khu người già trong khuôn viên chùa Linh Sơn. Cụ nói lên đây ở đi lễ bái cho gần, lại có mấy cụ già luẩn quẩn với nhau cho vui. Nhất là có hai người bạn học tử thuở xưa ở Kiến An , mà họ thường hay liên lạc chuyện trò. Nhưng thực tâm thì cụ không muốn phiền con cháu quá lâu. Từ trước tới nay cụ là người rất hoạt động, phải nói là đảm đang nữa. Cùng chồng cụ đã nuôi nấng, gây dựng cho sáu mặt con từ khi còn ở trong nước tới khi sang đây. Cháu nội ngoai các cụ có hơn một tá. Khu người già được lập ra từ hơn mười năm, có 40 phòng, dành cho các cụ độc thân, còn đủ sức khỏe , đi lại được, tự chăm sóc ăn uống , giặt giũ . Các cụ ở với nhau rất vui. Ngày ngày các cụ lên chùa lễ bái, tụng kinh rồi làm công quả. Lâu lâu nhà chùa tổ chức đi thăm viếng đây đó hoặc đi lễ hội chùa tỉnh khác.Đôi khi trời mưa , các cụ ở nhà rủ nhau làm vài hội chắn.

Mọi việc xuôi sẻ cho đến ngày hôm nay.Thực ra thì từ năm ngoái , cụ đã không được khỏe lắm. Huyết áp lên cao, các khớp xương cứ trở giời là đau nhức, lại còn mất ngủ. Có đêm, cụ chỉ ngủ được có vài ba giờ, nên ban ngày mệt và hay kêu chóng mặt. Cách đây ba tuần cụ phải nằm bệnh viện mất mươi ngày vì sưng phổi. Sau khi xuất viện, vợ chồng Vân muốn cụ về ở chung một thời gian cho khỏe nhưng cụ một mực từ chối, nói không sao. Vân đã cho anh chị em biết về tình trạng của cụ và mọi người định là tháng tới sẽ về để cùng thảo luận coi nên làm gì .

Tơi nhà thương, Vân được cô y tá cho hay tự sự. Số là sáng nay, mấy ông bà hàng xóm sang rủ cụ lên chùa tụng niệm, như lệ thường. Gõ cửa không ai có tiếng trả lời, một ông lão bèn đẩy cửa bước vào, thấy mẹ Vân nằm phục dưới đất, cạnh bàn điện thoại, nét mặt nhăn nhó. Cụ sửa soạn lên chùa thì bị một cơn chóng mặt, xỉu đi và ngã xuống nền nhà. Cụ cố với tới điện thoai để kêu cứu, nhưng đau quá, không lết thêm được.

Bác sĩ đã khám, chụp hình thì thấy cụ bị gẫy xương hông. Cụ hiện đang nằm trong phòng. Bác sĩ chờ thân nhân tới để thảo luận vì cụ cần được giải phẫu ngay.

Vân vào phòng, thấy mẹ nằm thiu thiu mà nước mắt trào ra. Da mặt bà cụ xanh nhợt, vẫn còn phảng phất nét đau đớn. Vân nhẹ nhàng ngồi xuống ghế, để mẹ tiếp tục ngủ. Nhìn mẹ mà lòng vân bối rối. Cả trăm vấn đề hiện lên trong đầu Vân. Sau giải phẫu, mẹ sẽ ra sao? Liệu có đi lại được không? Huyết áp cao, bệnh phong thấp hoành hành, lại mất ngủ thì sức khỏe phải sa sút.

Mấy tháng trước, khi vợ chồng Vân đến thăm, thấy cụ cứ than là ăn không ngon miệng, nên đôi khi chẳng thèm nấu cơ, mà uống ly sữa cho khỏi đói bụng. Coi tủ lạnh, Vân thấy mấy món ăn thiu đã lên men. Vào buồng tắm thấy nước vặn bỏ quên không khóa. Vợ chồng Vân đã lo ngại…

Rồi Vân nghĩ tới hoàn cảnh của mình.

Trong sáu người con, Vân là người duy nhất ở gần mẹ. Mà bà cụ vẫn có cảm tình đặc biệt với Vân, nên trước sau cụ vẫn nói là mai mốt nếu cần “tao chỉ ở với vợ chồng con Vân thôi. Nó bướng bỉnh nhưng có lòng”.

Vợ chồng Vân được hai trai một gái đã vào đại học nên cũng nhẹ gánh. Vân mới được lên chức và trong tương lai gần, sở sẽ cho nàng đi học thêm để lấy bằng chuyên môn. Vân đã sắp xếp như vậy cho mình. Chồng nàng thì cứ vài tháng phải đi công tác xa mươi ngày.

Bây giờ, cơ sự sẩy ra như thế này, mọi dự tính của Vân đều phải xét lại. Để chờ cụ giải phẫu xong rồi tuần sau anh chị em về sẽ tính. Nhưng Vân có linh tính rằng nàng sẽ là người đứng mũi chịu sào. Mẹ mình vẫn muốn vậy, nàng tự nhủ… Bà cụ chợt tỉnh giấc, mở mắt. Nhìn thấy Vân, Cụ gượng cười, mặt nhăn nhó. Và trong đôi mắt của mẹ, Vân đọc thấy những nét thất vọng, sợ hãi, chịu thua…

Trường hợp của chị Vân là một trong cả trăm ngàn trường hợp tương tự.

Tuổi thọ con người kéo dài lâu hơn. Số những người cao tuổi mỗi ngày mỗi gia tăng. Sức khỏe người già có khá hơn nhờ các cụ biết giữ gìn nếp sống cũng như được cung cấp thuốc men đầy đủ.

Nhưng một cơ thể lâu đời vẫn có những thay đổi tự nhiên theo chiều đi xuống cộng thêm những bệnh kinh niên, những tai nạn bất ngờ, với hồi phục chậm chạp. Biết bao nhiêu mất mát đã chồng chất lên niên kỷ, những xói mòn làm mong manh thân xác.

Dù vậy nhiều người già vẫn gắng gượng tự lo, chưa muốn phụ thuộc vào các con. Họ cũng có những kiêu hãnh riêng tư, những niềm tự trọng, đôi khi cũng chỉ e ngại “cảnh cha mẹ nuôi con như trời như bể, con nuôi cha mẹ con kể từng ngày “. Nhưng sức gắng gượng chỉ có hạn, rồi một ngày nào đó cũng yếu đi. Như căn nhà tranh trước gió bão, cần được chống đỡ.

Và cũng là lúc con cái phải suy nghĩ, xem ai sẽ là người lãnh trách nhiệm. Chắc phải là người có thiện chí, có điều kiện, khả năng và hoàn cảnh thuận tiện.

Phục vụ thân nhân cao tuổi là một vinh dự cho con cái đồng thời cũng là vấn đề quan trọng của nhiều xã hội hiện nay, khi mà người đàn bà phải xông pha kiếm cơm toàn thời gian. Nó ảnh hưởng dây chuyền tới nhiều lãnh vực khác. Sẽ có nhiều người vắng mặt ở sở hoặc đi làm trễ; sẽ có dùng nhiều điên thoại để lấy hẹn bác sĩ, gọi mua thuốc. Nhiều nhân viên tới sở than phiền mỏi mệt mất ngủ. Tai nạn tại chỗ dễ sẩy ra. Thay đổi việc làm nhiều hơn. Và số người bị trầm cảm, đau ốm sẽ gia tăng.

Trong thực tế thì có rất ít gia đình đã sửa soạn sẵn để giải quyết việc chăm sóc người thân khi về già. Nhiều việc xẩy đến bất thường, đòi hỏi có quyết định ngay. Ông bố đang có sức khỏe tốt, đột nhiên bị tai biến não, liệt nửa thân, nằm bất động cần giúp đỡ với nhu cầu căn bản, thiết yếu hàng ngày: ăn uống, tắm rửa, đại tiểu tiện, cho uống thuốc… Con dâu đang vừa đi làm vừa trông nom bà mẹ chồng , giờ đây con dâu cũng thường đau ốm. Ai là người sẽ lãnh trách nhiệm săn sóc ông bố ? Ai sẽ tiếp tay với mình trông nom mẹ chồng?

Theo kinh nghiệm thì dù có nhiều anh chị em, nhưng trách nhiệm chăm sóc không đồng đều chia sẻ khi bố mẹ cần. Có thể là người con gái lớn với cả một bầy con hoặc cô út chưa đi ở riêng, nàng dâu nhà ở gần bố mẹ. Đôi khi là câu con trai cưng, Nhưng thường ra thì chỉ có một người đóng vai chính, thường xuyên.

Nói như vậy không có nghĩa lã không có chia sẻ về tài chánh, công việc chăm sóc mà qua người này mọi việc được giáo phó, phối hợp và thông báo cho người khác khi cần. Một tiểu gia đình cộng thêm hai cụ thân sinh. Thế hệ người chăm nuôi được ví như thế hệ của một chiếc ” bánh mì kẹp chả” , với trách nhiệm làm cha mẹ, bổn phận làm con và đời sống riêng tư của mình.

Nói đến người săn sóc thường thường là ta nghĩ đến vai trò của người phụ nữ: con, con dâu, chị em , cháu. Cũng chẳng ai hiểu tại sao. Có lẽ đó là thiên chức của họ sinh ra với những nét dịu dàng, nhậy cảm, những quan tâm, linh động , nhất là đức tính hy sinh , thông cảm để chăm sóc chồng con, bố mẹ. Điều đó cũng đúng vì việc tề gia nội trợ, việc chăm sóc nâng niu thì làm mà sao qua khỏi tay các bà được. Cho nên khi một bà cụ khoe “tôi ở với con trai ” thì thực ra phải hiểu là bà cụ đang ở với con dâu mới công bằng, chính xác. Đàn ông cũng làm được công việc đó nhưng tổng quát, sắp đặt nhiều hơn là đi vào chi tiết. Mà những chi tiết mới là điều mà người phụ thuộc cần, quan trọng cho họ.

Người đàn bà có chín tháng mười ngày sửa soạn để đón chào đứa con ra đời, nhưng họ không có một phần mười thời gian đó để sẵn sàng cho trách nhiệm nuôi cha nuôi mẹ .Vì sự việc xẩy ra không lường trước.

Vả lại, nuôi con là thấy mỗi ngày nó vươn ra khỏi vòng phụ thuộc, còn nuôi bố mẹ già thì nhu cầu giúp đỡ mỗi ngày mỗi tăng, mỗi đi sâu vào sự lệ thước. Nhiều người như bơi lội quay cuồng trong vai trò mới của mình. Kinh nghiệm chưa có, làm sao học được cách thức điều dưỡng trong vài ngày. Tài chánh giới hạn. Sức khỏe kém. Công việc trở ngại. Ngoài việc làm kiếm gạo, mỗi ngày cũng phải dành ra vài giờ cho việc săn sóc. Họ cảm thấy cô đơn, buồn chán, nhiều khi bực bội, bất mãn, tuyệt vọng. Không còn riêng tư cho mình. Tương lai như ngưng lại. Họ mủi lòng cho người thân, người mà bạn xưa đã sớm bỏ ra đi, sức khỏe đang hao mòn và biết rằng đang là gánh nặng cho con cháu. Tình nghĩa gia đình, lòng hiếu thảo , mặc cảm chịu ơn là những hỗ trợ để người chăm sóc tiếp tục. Họ nghĩ là phải chăm sóc cha mẹ như cha mẹ đã nuôi nấng, trìu mến họ.

Nhưng dù có cứng nhưng cũng có ngày ngả nghiêng trước gió táp. Những chia xẻ trách nhiệm, những giúp đỡ từ anh chị em, thân nhân đã tới lúc cần có vì việc chăm sóc là trách nhiệm chung của cả gia đình.

Thường thì một người tình nguyện chăm sóc thường xuyên. Còn người khác phụ giúp khi được yêu cầu hay khi có cơ hội thuận tiện. Sắp xếp sao để tránh khỏi một người bị kiệt sức. Hoặc đưa tới lủng củng gia đình. Một người mẹ có thể chăm sóc cả bầy con mười đứa, nhưng khi mẹ già thì mười đứa con không chăm sóc được một mẹ .

Sau một thời gian cố gắng, người chăm nom bắt đầu có những dấu hiệu khó khăn . Đôi khi họ cố tình gạt bỏ những nhu cầu riêng, quên những đau ốm cá nhân để lo cho người thân yêu. Có người từ chối sự tiếp tay của anh chị em hoặc bạn bè, nhóm hội. Họ cứ nghĩ có đủ sức làm mọi việc và nếu nhận sự tiếp tay là thú nhận thất bại, kém khả năng. Có người cho là chỉ có mình mới chăm sóc chu đáo., không tin ở người khác. Để rồi kiệt sức, ngã bệnh. Thử tưởng tượng một người không có sức khỏe dồi dào, săn sóc một người không khỏe lắm, thì chắc kết quả cũng chẳng được mấy hoàn hảo, như ý muốn của đôi bên.

Theo mấy ông bà thống kê thì người cống hiến chăm sóc bị ba lần trầm cảm, bốn lần tức bực hơn người nhận. Họ bất mãn vì đã cố gắng hết mình mà tình trạng người thân mỗi ngày mỗi suy kém, nên phải cố gắng hơn .

Họ có cảm tưởng như mình là người duy nhất có thể chăm sóc chu đáo được cho người thân,luôn luôn e ngại rằng sự săn sóc của anh chị em sẽ làm người thân suy yếu hơn.

Đôi khi họ thấy không có được một thì giờ riêng cho mình, một chút riêng tư với chồng con

Rồi tính tình thay đổi, hay cau có, bực tức, giận dỗi vu vơ; cảm thấy khó chịu với người mình đang trông nom đã chẳng chịu hợp tác lại còn bướng bỉnh, đòi hỏi.

Lâu lâu thấy trong người mệt mỏi, ngủ không được, mà buổi sáng sợ không dám thức dậy, sợ cái thông lệ sẽ đến. Ăn uống đổi thay, khi nhiều khi ít.

Dịch vụ chăm sóc gây trở ngại cho công việc làm ăn, cho đời sống giao tế hàng ngày.

Không còn thấy vui vẻ kiêu hãnh về trách nhiệm của mình, hoặc cảm thấy tội lỗi về nhừng ý nghĩ không tốt của mình đối với người thân.

Rồi một lúc nào đó ngã bệnh, buông xuôi…

…Để tiếp tục lo lắng cho mẹ, chị Vân đã dành cho bản thân chị một vài chăm sóc, nhân nhượng. Vân đã như nghe thấy từng thớ thịt kêu gào với Vân, cho tôi nghỉ chút xíu chứ, bạn đã sử dụng quá sức lao động của tôi để phục vụ bà cụ rồi.

Vân đã sẵn sàng, dễ dãi tiếp nhận sự giúp đỡ của anh chị em. Cô Lan ơi, tuần sau lên đón mẹ về với em, đỡ hộ chị mươi ngày nhé, anh chị định đi xả hơi ngoài biển. Anh Hoan ơi, bác sĩ nói mẹ cần uống thêm sữa đậu nành, hay là anh nói với chị làm hộ em mỗi tuần vài lít.

Chị đã xen kẽ xả hơi và chăm sóc để duy trì sinh lực, lấy lại nhiệt tâm.

Dạo này Vân để ý đến ăn uống đầy đủ dinh dưỡng hơn. Ngày nào chị cũng dành 15 phút để vận động cơ thể.

Nàng lo nhất là giấc ngủ, sợ bị rối loạn. Ban đêm nhiều khi Vân phải thức dậy giúp đưa mẹ vào phòng tắm, lấy miếng nước, viên thuốc. Vân biết là mất ngủ sẽ mau đưa tới mọi tiêu hao tinh thần thể xác.

Chị cũng đã nghĩ đến một ngày nào đó, chị phải cần đến sự giúp đỡ của vài tổ chức trong cộng đồng tôn giáo, xã hội, những nhóm hỗ trợ tư nhân.

Nhưng quan trọng nhất vẫn là nói chuyện với Lan, Hoan.. Để phân chia công việc săn sóc, phụng dưỡng người mẹ cô đơn…

 


BẠC ĐÃI NGƯỜI CAO TUỔI
Bạc đãi người cao tuổi là một vấn đề thường xẩy ra trong mọi xã hội, nhưng người ta hay tránh né, không muốn nói tới hoặc tìm hiểu thêm. Nhiều người lại không tin, cho là làm gì có chuyện bạc đãi đó.

Thực tế thì riêng tại nước Mỹ, hàng năm có cả từ nửa triệu tới một triệu người già bị bạc đãi, nhưng rất ít trường hợp được phát giác. Trong tương lai, con số này sẽ cao hơn vì tổng số những người cao tuổi trên khắp thế giới mỗi ngày mỗi gia tăng.

Theo định nghĩa chung, bạc đãi người già là một sư cố tình đối xử tàn tệ và gây thiệt hại về tinh thần lẫn thể xác cho nhóm người này. Sự bạc đãi có thể xẩy ra một lần hoặc tái diễn.

Đôi khi, hành động không tốt xẩy ra vì vô tình, vì không hiểu biết thấu đáo cách săn sóc người cao tuổi vốn đã có sức khỏe kém, sống phụ thuộc vào người khác.

Nạn nhân của sự lạm dụng thường thường là ở lứa tuổi trên 60 nhiều nhất là tuổi 80. Nạn nhân nữ nhiều hơn nam, da trắng nhiều hơn dân da mầu. Người già gốc Á Châu được coi là ít bị ngược đãi, có lẽ nhờ con cháu còn giữ được truyền thống nhớ ơn và phụng dưỡng các đấng sinh thành.

Đa số nạn nhân đều suy yếu về sức khỏe thể xác, có một vài rối loạn về tâm thần. Họ cũng có khó khăn về vấn đề tài chánh, nhiều khi phải phụ thuộc vào thân nhân. Họ thường sống xa với xã hội, đôi khi sợ bị bỏ rơi nên cắn răng chịu đưng, không dám than phiền.

Người lạm dụng, bạc đãi phần lớn lại là thân nhân, và sự bạc đãi thường hay xảy ra ở ngay trong môi trường gia đình. Theo kết quả một nghiên cứu được công bố năm 1998 ở Hoa Kỳ, thì tỷ lệ con cái bạc đãi cha mẹ lên đến 43%; vợ chồng già đối xử không tốt với nhau là 30%.

Một điểm đặc biệt, theo nghiên cứu này, thì sự bạc đãi ở ngoài gia đình ( nhà người già, viện điều dưỡng người cao tuổi, chương trình sinh hoạt ban ngày, trong các trung tâm sinh hoạt cộng đồng..) lại rất thấp và số nam giới đối xử xấu với người nữ nhiều hơn.


Những yếu tố đưa đến bạc đãi

Với người cao tuổi nhận sự chăm sóc của thân nhân, con cái thì ta thấy có nhiều lý do đưa đến sự bạc đãi: người chăm sóc quá kiệt sức, bị căng thẳng vì hàng ngày phải liên tục lo lắng cho người già mà không được nghỉ ngơi, không có sự tiếp tay của người khác; có khó khăn về kinh tế; sợ mất việc vì phải bỏ nhiều thì giờ nghỉ ở nhà để chăm sóc người thân nên chuyển sự bực bội sang họ; sống chung trong một căn nhà nhỏ hẹp không đủ chỗ cho mọi người; thấy mình như bị bắt buộc phải lãnh trách nhiệm lo cho người thân mặc dù hoàn cảnh không cho phép. Đôi khi chính người chăm sóc lại có vấn đề với rượu chè, hút sách, có rối loạn tâm thần hoặc cũng đã từng bị bạo hành khi còn nhỏ.

Trong nhà dành cho người cao tuổi thì sự đối xử không tốt thường xẩy ra khi nhân viên làm việc quá sức, làm việc nhiều giờ liên tục lại không được trả lương thỏa đáng; bực mình vì sự ngang bướng, cứng đầu , đòi hỏi quá đáng của người già. Đôi khi nhân viên làm việc kém chu đáo vì không được huấn luyện cách chăm sóc những người đã già mà lại có sức khỏe suy nhược.

Có nhiều hình thức bạc đãi khác nhau:

1-Về thể xác:

Đụng chạm, tiếp cận tới cơ thể nạn nhân một cách không thích hợp như là cắn, đánh, đấm, đạp, tát , xô đẩy người cao tuổi. Với sự lạm dụng này, nạn nhân có thể mang nhiều thương tích trên mình như các vết bầm, vết cắt, sưng trên da; vết da cháy phỏng do đầu thuốc lá, hóa chấtù; thương tích không biết lý do như gẫy xương, bầm trên mắt, vết cào cấu trên da.

Nhiều nạn nhân gầy ốm vì thiếu ăn, khô nước vì bị bỏ đói khát.Trong trường hợp này, người lạm dụng thường hay kiếm cách che đậy, không đưa nạn nhân đi nhà thương, không cho thân nhân thăm người già riêng rẽ; ấp úng không giải thích được những dấu hiệu thương tích trên người nạn nhân. Nạn nhân thì lo sợ, không dám nói ra và còn tìm cách tránh né bạn bè, thân nhân.

2- Lạm dụng tình dục:

Người già bị lợi dụng để làm tình dưới nhiều hình thức mà không có sự đồng ý như hãm hiếp, sờ soạng…Nạn nhân có mang các thương tích nơi cơ quan sinh dục, ngực; quần áo bị sé rách vớí nhiều vết máu; đi lại, đứng ngồi khó khăn. Nạn nhân thường sợ hãi khi phải đối diện với người khác phái.

3- Hành hạ tâm thần:

Dùng những lời nói cay nghiệt, lăng mạ, làm nhục, làm mất uy tín, mất tự tin, đe dọa, gây sợ hãi, cô lập nạn nhân. Trước những hoàn cảnh này, nạn nhân thấy bất lực, lo sợ, buồn rầu, tự cô lập vì sợ hãi. Đôi khi họ trở nên mất định hướng, rối loạn, không nói lên , không diễn tả được tâm trạng lo âu của mình.

4- Lợi dụng tiền nong:

Khi được người thân tín nhiệm giao cho việc quản trị chi thu thì lại lạm dụng, ăn bớt ăn sén, biển thủ, mạo chữ ký, lấy trộm, dối trá mua một nói mười để thủ lợi. Vì lòng tham, đôi khi không lo thực phẩm đầy đủ, bớt sén cung ứng các nhu cầu thường nhật nhưng vẫn kê khai chi tiêu lớn. Có trường hợp người lạm dụng còn làm những chuyện phi pháp như đổi di chúc, lạm dụng giấy ủy quyền để lấy phần lợi cho mình.

Ngoài sự lạm dụng cố tình, đôi khi cũng có những lỗi lầm chăm sóc do chểnh mảng, do không biết tường tận tình trạng người già; do bị quá căng thẳng không có đủ thì giờ ngủ nghỉ.ø

Sự lạm dụng ở nhà điều dưỡng người già cũng thường xảy ra và cũng có những hình thức như vừa kể cộng thêm việc cho người già dùng nhiều thuốc an thần hoặc trói buộc bằng dây để trấn áp người già. Khi vào thăm một số cơ sở điều dưỡng người cao tuổi, ta thấy các vị này ngủ nằm ngủ ngồi vì được cho uống thuốc ngủ ngõ hầu khỏi quấy rầy nhân viên.

Vài dấu hiệu cho hay có sự lạm dụng

Theo lệ thường, người cao tuổi bị bạc đãi ít khi than phiền, tố cáo vì nhiều lý do.

Một số cảm thấy ngượng ngùng, bối rối khi đề cập tới việc bị bạc đãi; một số ngại bị trả thù; một số không đủ khả năng để khai hoặc không ý thức được là mình đang bị đối xử tồi tệ.

Một vài dấu hiệu có thể khiến ta nghi là có lạm dụng như nạn nhân có những thương tích không giải thích được; bệnh tình đột nhiên trầm trọng hơn, gầy yếu không lý do; vệ sinh cơ thể tồi tệ; sống cô lập, sợ sệt; mất định hướng, rối loạn tâm trí, hoang tưởng, buồn rầu trầm cảm.

Chính quyền với vấn đề lạm dụng

Sự đối xử tồi tệ với người cao tuổi đã được chính quyền các quốc gia lưu tâm và nạn nhân đã được luật pháp bảo vệ. Mới đây, tại tiểu bang California, cơ quan tư pháp đã mở cuộc kiểm tra các nhà điều dưỡng dành cho người già. Kết quả cho thấy 1/3 các cơ sở này đều có những vi phạm trầm trọng trong việc chăm sóc người cao tuổi.

Riêng tại Hoa Kỳ, mỗi tiểu bang đều có biện pháp trừng trị kẻ lạm dụng ngưòi già. Nhân viên y tế nghi ngờ có dấu hiệu lạm dụng đều phải thông báo với nhà chức trách. Chính phủ cũng dành ngân khoản trợ cấp cho các tổ chức bảo vệ người già bị lợi dụng. Có những đường giây điện thoại khẩn cấp để giúp khám phá cũng như báo cáo khi có lạm dụng. Một số điện thoại miễn phí cho liên bang là số 800- 677. 1116. Vài tiểu bang còn có luật trừng phạt tù và tiền khi biết mà không báo cáo những trường hợp đối xử tồi tệ với người cao tuổi.

Tại Việt Nam ta xưa và nay cũng có những điều khoản luật lệ để bảo vệ người già, tránh sự lạm dụng, nhất là do người thân thuộc gây ra.

Vài điều cần lưu ý

Tại các quốc gia, hầu hết người cao tuổi đều sống một mình hoặc với thân nhân, và chỉ có khoảng 10% sống trong các nhà dành cho người già. Cho nên sự đối sử tệ nếu có , thường xẩy ra ở nhà.

Để tránh tình trạng này, ta cần lưu ý giải quyết những hoàn cảnh tạo ra sự việc.

Nhờ thân nhân tiếp tay trong việc chăm nuôi để tránh cảnh một mình phải gánh chịu mọi công việc từ trông nom đến cung cấp mọi nhu cầu vật chất. Sớm phát giác những dấu hiệu khó khăn về phần mình như căng thẳng , mệt mỏi trong việc chăm nuôi. Cầu cứu giúp đỡ ngay khi thấy cần.

Khi đi thăm thân nhân trong nhà người già, nên thăm dò xem nhân viên có được huấn luyện chu đáo cách thức săn sóc. Hỏi thân nhân coi nhân viên đối sử ra sao; phát hiện những triệu chứng, dấu hiệu bất thường trên cơ thể người già.

Về phần người cao tuổi cũng cần cảnh giác mấy điều sau đây:

Khi sống một mình, cửa ngõ cần luôn luôn cài đóng, nhất là ban đêm; không mở cửa cho người lạ; khi nghi ngờ có người theo dõi mình thì báo cho thân nhân hay ngay; tìm hiểu xem trong khu phố có chương trình hàng xóm canh chừng cho nhau để khi cần thì liên lạc nhờ giúp đỡ.

Khi sống với thân nhân mà nghi ngờ bị lợi dụng thì nói cho bạn bè hoặc người thân khác hay ngay và yêu cầu họ tới thăm mình thường xuyên hơn. Để tránh hoặc giảm thiểu sự đối sử tồi tệ.

Kết luận

Sống tới tuổi cao là điều ai cũng mong muốn. Nhưng sống mà để bị lệ thuộc rồi bị lạm dụng lại là điều đáng tiếc. Cho nên có nhiều vị cao niên đó nghĩ rằng đa thọ, đa nhục là vì vậy.

Thực là: Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể, Con nuôi cha mẹ con kể từng ngày.

Giờ đây đốt đuốc đi tìm chắc cũng ít thấy cảnh quạt nồng ấm lạnh của ngươi Hoàng Hương, hoặc biết chịu sự kham khổ để miếng ngon, miếng lành mà nuôi cha mẹ của Mao Nhung.

Đáng buồn thay!

 


SỰ DÙNG DƯỢC PHẨM Ở NGƯỜI CAO TUỔI
Thuốc hay dược phẩm được định nghĩa là chất lấy ở thực vật, khoáng vật, sinh động vật, hóa chất với mục đích trị bệnh, phòng ngừa bệnh, phục hồi các chức năng của cơ thể hoặc thay đổi quá trình sinh sản v.v.., khi được dùng đúng lúc, đúng cách, trong một thời gian nhất định. Trước năm 1920, dược phẩm trên thị trường rất ít, công dụng tuy giới hạn nhưng an toàn hơn. Ngày nay, có rất nhiều thuốc công hiệu nhưng lại gây một số tác dụng phụ nguy hại, bất lợi. Nếu trong việc cho toa, bác sĩ cần cân nhắc loại thuốc thích hợp với y chứng, phân lượng vừa đủ và thời gian xử dụng, thì người bệnh cũng cần thực thi đúng theo hướng dẫn của bác sĩ: thuốc nào, bệnh nấy. Quý vị lão niên ta rất chăm lo tới sức khỏe, nên rất chăm chỉ trong việc tìm thuốc trị bệnh. Thấy có một triệu chứng bệnh nào là quý vị kiếm thuốc ngay: do bác sĩ biên toa, hoặc qua sự giới thiệu của bạn bè, đọc sách báo y học, mua trên mạng vi tính.

Thành ra, một vị trên 65 tuổi, có khi uống đến cả 7,8 thứ thuốc trong một ngày. Thuốc bệnh do bác sĩ cho về cao huyết áp, thuốc bao tử, thuốc đau nhức, phong thấp, vài viên thuốc ngủ, kèm thêm ít thuốc ta để bổ gân, bổ thận do bạn bè giới thiệu, lại còn sinh tố, anti oxidant.

Với một hỗn hợp nhiều hóa chất khác nhau như vậy e rằng chúng sẽ gây ra những tác dụng tương phản, đôi khi có hại, cho một cơ thể đã có nhiều thay đổi về cấu tạo cũng như chức năng.

Hàng năm, số bệnh nhân cao tuổi nhập viện khẩn cấp do hậu quả của sự xử dụng thuốc không đúng cách lên rất cao, nhất là với thuốc về bệnh tâm thần.

Chúng tôi xin cùng quý vị tìm hiểu thêm về vấn đề xử dụng thuốc này để duy trì một sức khỏe bình thường hơn.

Công dụng của dược phẩm.

Về phương diện trị liệu, sự xử dụng dược phẩm nhằm vào những mục tiêu

chính như:

1-Trị lành bệnh.

Khi mắc một bệnh nhiễm vi trùng, như sưng phổi, ta sẽ có những triệu chứng ho, nóng sốt cao, mệt mỏi, khó thở. Sau khi khám bệnh, bác sĩ cho uống thuốc khángï sinh trong vòng 7-10 ngày. Sau đó nhiệt độ giảm, ta bớt ho và trở lại bình thường. Như vậy thuốc kháng sinh đã tiêu diệt vi trùng và ta đã lành bệnh .

2 -Thay thế những yếu tố thiếu trong cơ thể –

Một người mắc bệnh thiếu máu, hồng huyết cầu thấp, vì ruột không hấp thụ được sinh tố B12. Bác sĩ cho chích mỗi tháng một mũi Vit B12 để thay thế sinh tố thiếu trong cơ thể.

Bệnh nhân bị tiểu đường vì tụy tạng tiết ra rất ít Insulin, sẽ được chích Insulin nhân tạo mỗi ngày để giữ mức đường trong máu bình thường.

Sư thay thế như vậy là cần thiết và đạt được mục tiêu làm cơ thể trở lại bình thường sau thời gian bệnh vì thiếu những chất kể trên.-

3- Ngăn ngừa sự phát triển một bệnh.

Cũng trong trường hợp bệnh tiểu đường, Insulin còn duy trì bệnh ở tình trạng không gây ra những biến chứng nguy hiểm như hư mắt, hư thận và nếu ngưng Insulin, bệnh sẽ trầm trọng thêm lên.

Người bị cao huyết áp nếu ngưng uống thuốc trị cao máu, bệnh sẽ nặng hơn và có thể gây tai-biến-mạch-máu-não, kích xúc tim.

Trong các bệnh này, dược phẩm không những có công dụng điều trị mà còn ngăn ngừa biến chứng của bệnh.

4-Thuốc để làm dịu một triệu chứng.

Thí dụ như khi ta bị đau nhức mình mẩy vì làm vườn quá sức hay nhức đầu vì uống rượu quá nhiều, thường thường ta uống một viên Tylenol hay Aspirine.

Thuốc không làm hết bệnh, mà chỉ làm dịu cảm giác đau, khó chịu. Nhiều khi chẳng cần thuốc, mà chỉ cần nằm nghỉ vài giờ là hết đau.

Số lượng thuốc dùng trong mục đích xoa dịu này rất nhiều, đôi khi có sự lạm dụng.

5- Phòng ngừa bệnh.

Các thuốc này hoặc tạo ra tính miễn dịch hoặc hỗ trợ hệ thống miễn nhiễm của cơ thể như chích ngừa cúm, phong đòn gánh.

Nhờ sự chích ngừa này mà nhân loại tránh được nhiều bệnh truyền nhiễm, gây tử vong cao ở các thế kỷ trước, như bệnh đậu mùa, dịch hạch…

Các tác động có hại của dược phẩm.

Với những công dụng như trên, thuốc giữ một vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe của con người, nói chung, và của lão niên ta nói riêng.

Mà thuốc thường thường cũng chỉ là một hóa chất, có công dụng như nói ở trên, đồng thời cũng có tác dụng phụ không tốt, bất kể là thuốc gì, dùng nhiều hay là ít. Đó là những tác-động-có-hại của thuốc (Adverse drugs reaction).

Theo định nghĩa của Cơ Quan Y Tế Thế Giới thì tác động này là bất cứ một đáp ứng không mong muốn nào của cơ thể, xẩy ra khi dùng thuốc theo phân lượng để ngừa bệnh, định bệnh hay trị bệnh. Tác động có hại được chia nhiều loại:

1- Dị ứng thuốc.

Có nhiều tác động hại không phải do dị ứng, nhưng vẫn được công chúng hiểu nhầm là dị ứng. Chẳng hạn như sau khi uống thuốc, ta bị ói mửa, đại tiện lỏng, sót ruột..thì chỉ là tác dụng tại chỗ của thuốc vào bao tử.

Dị ứng là do sự tác động của kháng thể đã có trong máu, chống lại sự hiện diện của dược phẩm, và gây ra một số những triệu chứng khó chịu, đôi khi nguy hiểm. Nó có tác dụng ngược lại với cơ chế miễn dịch, chống sự xâm nhập của vi trùng.

Ban chẩn với những lấm tấm đỏ trên da là phản ứng thông thường nhất của dị ứng. Trường hợp nặng sẽ có nóng sốt, khó thở, thở khò khè, ngứa toàn thân, huyết áp giảm, tim đập liên hồi, suy nhược tổng quát …có thể nguy hiểm cho tính mạng, nếu không được cấp cứu.

Phản ứng này thường thấy khi chích thuốc Penicillin, Insulin hay hóa chất dùng trong việc chụp hình quang tuyến X. Nó có thể xẩy ra tức thì hay chậm lại một thời gian. Cũng nên nhớ là dị ứng có thể xẩy ra dù chỉ dùng một phân lượng rất nhỏ dược phẩm.

2- Tác dụng độc của dược phẩm.

Dược phẩm là một hóa chất, mà bất cứ hóa chất nào cũng có tác dụng độc cho cơ thể, ngoài giá trị chữa bệnh.

Viên Aspirin mà ta thường uống để làm dịu nhức đầu, phong thấp thì cũng làm màng bao tử trầy hư, gây xuất huyết. Thuốc chữa các bệnh ung thư làm rụng tóc. Thuốc trị cao huyết áp gây loạn cương dương. Thuốc ngừa máu đóng cục trong vài bệnh tim làm loãng máu, gây xuất huyết, khó cầm khi bị thương hay giải phẫu.

Đây không phải dị ứng nhưng là tác dụng của hóa chất mà trước khi dùng nó, ta đã được giải thích rõ ràng.

3- Tác dụng do phân lượng không đúng.

Thuốc uống ít quá, không có công hiệu, mà nhiều quá thì dễ gây phản ứng có hại.

4- Tác động bất thường , không rõ nguyên nhân.

Đáp ứng của từng cá nhân với thuốc, như lượng nhỏ thuốc tê có thể gây nóng sốt, hay thuốc Tifomycine gây hủy hoại hồng cầu.

Sau đây là một số yếu tố có thể khiến tác động bất thường của thuốc dễ xẩy ra:

a- Đã có những bệnh dị ứng.

b- Đã có phản ứng với thuốc trong quá khứ.

c- Uống nhiều thuốc khác nhau vì có nhiều bệnh kinh niên.

d- Điều trị bởi nhiều bác sĩ chuyên khoa, mỗi người cho toa thuốc khác nhau.

e- Có khó khăn về tài chánh, không mua đủ thuốc, dùng thuốc cũ, quá hạn

g- Khiếm khuyết thị giác, thính giác, không nhìn rõ mặt thuốc cũng như không nghe rõ lời dặn của bác sĩ, dược sĩ rồi uống thuốc không đúng cách.

5-Tác dụng giữa thuốc và thực phẩm.

Đa số thuốc ta dùng ở nhà là thuốc uống, mà thuốc và thực phẩm đều được hấp thụ vào máu qua bao tử, nhất là ruột non.

Hiệu quả của thuốc có thể tăng, giảm hoặc không thay đổi, tùy theo loại thực phẩm và tùy theo uống thuốc trước hay sau khi ăn.

Do đó ta cần hỏi bác sĩ, dược sĩ khi nhận thuốc, để tránh phản ứng bất lợi.

6-Uống nhiều thuốc khác nhau.

Vấn đề đặc biệt quan trọng ở người cao tuổi là uống nhiều thuốc cho nhiều bệnh hay nhiều triệu chứng. Thuốc đôi khi có tác dụng tương phản nhau, gây không tốt cho cơ thể.

Hơn nữa, ở người cao tuổi, khả năng hấp thụ ở bộ máy tiêu hóa, biến hóa thuốc ở gan , và bài tiết dược phẩm qua thận đều giảm tới 40% so với tuổi trẻ, trung niên. Thời gian bán hủy của thuốc ở huyết tương kéo dài, và độc tính của thuốc tăng thêm.

Vài cách tránh những điều bất lợi khi dùng thuốc. Để sự xử dụng thuốc có công hiệu, không phản ứng, ta cần lưu ý những điều sau đây:

1-. Kê khai với bác sĩ tất cả những bệnh mình đang có, những thuốc mình đang uống, cả thuốc mua tự do ở chợ hay thuốc do bạn bè giới thiệu.

Mồi lần đi khám bệnh, mang ống, chai thuốc đã dùng để bác sĩ dễ nhận diện thuốc. Nhiều vị nói, “ấy kỳ trước bác sĩ cho tôi viên hạt dưa trắng, tốt lắm”, hay là “tôi đang uống thuốc nước mầu hồng”, thì chả ai biết là thuốc gì.

2-. Theo lời chỉ dẫn của bác sĩ dược sĩ, đọc kỹ nhãn thuốc với cách dùng, giờ uống, uống lúc nào, bụng đói hay no, mấy lần một ngày.

Chẳng hạn thuốc uống bốn lần trong một ngày, có thể là uống vào những bữa ăn và trước khi đi ngủ; hoặc cũng có thể là uống mỗi 6 giờ đồng hồ, kể cả thức dậy ban đêm để uống.

Với thuốc nước , ta cần lắc chai cho thuốc hòa đều với nhau trước khi uống.

Không tự ý tăng hay giảm phân lượng, vì ít quá, không có công hiệu, nhiều quá sẽ gây hại.

Uống cho hết thời hạn bác sĩ dặn, chứ không phải thấy giảm bệnh là ngưng thuốc.

Không uống thuốc trong bóng tối, có thể nhầm loại thuốc.

3-. Thông báo cho bác sĩ tác dụng phụ hay phản ứng của thuốc mình đã có.

4-. Giữ thuốc nơi an toàn, xa tầm tay trẻ con, trong chai, lọ từ nhà thuốc tây, để tránh nhầm thuốc. Vứt bỏ thuốc quá hạn.

5- Ráng nhớ tên thuốc cũng như công dụng của thuốc.

6-Nếu có thể, nên mua thuốc ở một tiệm, như vậy dược sĩ sẽ có toàn bộ hồ sơ thuốc của mình, có thể theo dõi, giải thích tác dụng các loại thuốc khác nhau cho mình.

Người dược sĩ không chỉ đóng vai trò cung cấp thuốc như trước đây. Họ có nhiệm vụ liên lạc với bác sĩ để tham khảo, lựa thuốc thích hợp cho bệnh nhân, hướng dẫn cách dùng thuốc, tác dụng tốt xấu của thuốc, theo dõi xem bệnh nhân có uống thuốc đều đặn không, phân lượng cho có gì bất thường hay không.

Trình bầy dược phẩm.

Nói đến thuốc, tưởng cũng nên tìm hiểu qua về cách thức trình bầy các tên thuốc.

Tại Hoa kỳ, trước năm 1938, hễ có tiền là ta có thể mua tự do bất kể thuốc gì, không cần toa bác sĩ, trừ thuốc có chất ma tuý.

Thế rồi, khi đó có một viện bào chế tung ra thị trường một dược phẩm chứa chất hòa tan độc, làm chết cả trăm người. Chính quyền bèn can thiệp, và từ năm 1951 cơ quan Thực Phẩm và Dược Phẩm (Food and Drug Administration- FDA ) của chính phủ liên bang Hoa Kỳ phân định rõ ràng thuốc cần toa bác sĩ và thuốc bán tự do.

Thuốc được bán với những tên khác nhau, nhưng căn bản dược hóa chất vẫn là một.

Khi viện bào chế khám phá ra một chất hóa học có giá trị chữa bệnh, họ bèn đặt cho nó một cái tên riêng(biệt dược), như đã trình tòa (Brand name ), độc quyền bán thuốc này ít nhất trong dăm năm.

Sau thời gian đó các viện bào chế khác tự do chế hóa chất đó thành dược phẩm cùng có công dụng nhưng dưới tên chung (generic ), nhiều khi mang tên khoa học của hóa chất. Thuốc generic rẻ hơn từ 25 tới 80 % và công hiệu tương đương với biệt dược.

Nhưng giới tiêu thụ thì vẫn thích biệt dược hơn, vì họ cho là tốt hơn. Tên của thuốc tên riêng thường ngắn, gọn, dễ nhớ và được quảng cáo rộng rãi, tốn kém rất nhiều nên bán với giá cao hơn. Do đó bảo hiểm cũng như thẻ khám bệnh người già, người kém lợi tức thường khuyến khích bác sĩ biên thuốc tên chung.

Dươc ïphẩm được bào chế dưới nhiều hình thức khác nhau.

Thuốc có thể là để chích thịt, dưới da, mạch máu, khớp xương, có khi chích thẳng vào tim.

Thuốc uống thì hoặc là viên, nước.

Có thuốc để dưới lưỡi, xịt mũi, miệng tác dụng rất mau.

Có thuốc dán trên da, hóa chất ngấm thẳng vào mạch máu, hay thuốc nhét hậu môn, cửa mình.

Lại còn thuốc nhỏ lỗ tai, con mắt, thuốc mỡ, thuốc nước bôi ngoài da.

Hình thức khác nhau nhưng chúng có cùng công hiệu và có những tiện lợi tùy theo loại thuốc và bệnh trạng.

Nhiều khi uống viên thuốc vào, nó chặn ở họng hoặc vì hòa tan, nó làm sót đau thực quản nơi ngực, ta có thể dùng mẹo như sau: trước khi uống thuốc, làm trơn cuống họng với một ngụm nước,nuốt thuốc với một miệng đầy nước rồi sau đó uống chừng 1/2 ly nước cho thuốc trôi xuống bao tử.

Nên đứng hoặc ngồi để uống thuốc và giữ vị thế này trong vài phút trước khi nằm để tránh trường hợp thuốc dội ngược lên miệng.
Kết luận

Sir Wiiliams Osler, người thầy thuốc kiêm giáo sư Y khoa nổi danh của Gia Nã đại, có nhận xét : “Sự muốn dùng dược phẩm có lẽ là một đặc trưng lớn nó phân biệt con người với loài vật”.

Nhưng, để sự xử dụng này được công hiệu như ý muốn và tránh được tác dụng không tốt, cần có sự hợp tác chân tình giữa bệnh nhân với bác sĩ, dược sĩ và sự hỗ trợ của gia đình người bệnh.

 


MỘT VÀI DƯỢC THẢO THƯỜNG DÙNG
Hiện nay, phong trào dùng cây cỏ thiên nhiên với mục đích chữa bệnh đang gia tăng trong dân chúng. Có người dùng theo lời giới thiệu của bạn bè. Có người vì bệnh không chữa được bằng tây y, đã đi tìm thầy thuốc cổ truyền.

Nhưng cỏ cây dù thiên nhiên, có loại an toàn, công hiệu, cũng có loại không có công dụng gì, đôi khi nguy hiểm vì tác dụng phụ. Nên nếu đã dùng, thì ta cần biết qua về thảo chất, về dược tính của cỏ cây đó.

Trong bài này, dựa vào các tài liệu đáng tin cậy, chúng tôi xin trình bầy đặc tính mấy món dược thảo đang rất phổ thông, mà có thể một số quý vị đang dùng.

1- Ginkgo Biloba.-

Việt Nam ta goị là cây gỗ Bạch Quả, cao tới 30 thước, lá hình cái quạt, hạt giống như qủa trứng. Hạt và lá được dùng làm thuốc. Cây Ginkgo đã mọc ở Trung Hoa từ nhiều triệu năm, nhập cảnh Âu châu năm 1730, vào Hoa Kỳ năm 1784. Hiện nay, cây được trồng nhiều ở miền Đông Nam nước Pháp, ở Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản, Hoa Kỳ.

Hạt Gingo đã được người Trung Hoa dùng để trị bệnh từ năm 2800 trước Thiên Chúa. Từ hơn 20 năm nay, lá Ginkgo rất thông dụng trên thị trường dược thảo và đã có nhiều cuộc nghiên cứu khoa học về công dụng trị bệnh, nhất là ở nước Đức.

Ginkgo chứa nhiều dược chất có tác dụng làm dãn động mạch, khiến máu lưu thông dễ dàng, được dùng trị các trường hợp giảm tuần hoàn ở não bộ, nhất là người cao tuổi, ở tai, rối loạn tuần hoàn ngoại vi.

Nhiều thử nghiệm đã xác nhận công dụng trị liệu của Bạch Qủa trong chứng sa sút trí tuệ, bệnh Alzheimer, nâng cao khả năng nhận thức, trí nhớ và giao tế trong đời sống hàng ngày.

Ginkgo làm giảm chứng đau bắp chân khi đi bộ lâu do tuần hoàn ngoại vi kém. Bạch qủa hiện cũng đang được thử nghiệm để trị sự rối loạn tình dục gây ra do vài loại thuốc trị trầm cảm.

Trong các chứng nhức đầu, ù tai, chóng mặt, đổi tính, cáu gắt, ngủ gật, u buồn của tuổi già, Ginkgo cũng có công hiệu.

Ginkgo còn được coi như một chất chống oxy hoá ( anti- oxidant ), được dùng để trì hoãn sự lão hóa.

Bên Nhật, người ta còn dùng Ginkgo để trị bệnh ung thư, bệnh hư giác mạc, bệnh thiếu chú ý ( Attention Deficit Disorder ) của người lớn.

Hiện nay, hình thức Ginkgo thường dùng là chất chiết ( G.B.extract) rút ra từ lá khô, do công ty Willmar Schwabe, Đức quốc, sản xuất đầu tiên và phổ biến trên thị trường.

Phân lượng dùng là 40-80mg, ba lần trong ngày, và dùng liên tục trong 4-6 tuần lễ.

Tác dụng phụ thường nhẹ xẩy ra trong mấy ngày đầu khi mới dùng thuốc, gồm có buồn nôn, ói mửa, tiêu chẩy, chóng mặt, nhức đầu.

Không nên dùng Bạch Qủa khi đang uống thuốc chống đông máu như Warfarin, Aspirin.

2-St John Wort.-

Tên khoa học là Hypericum perforatum, thường được biết qua tên St John Wort vì loại cây này nở hoa mầu vàng rất đẹp vào ngày kỷ niệm sinh nhật Thánh St John the Baptist, 24 tháng Sáu mỗi năm.

Cây có nguồn gốc ở Âu Châu từ thời kỳ trung cổ, nay được trồng khắp nơi trên thế giới. Vào thời Trung cổ, SJW đã được dùng để trừ ma qủy, làm trong sạch không khí, khiến được mùa ngũ cốc khi đốt trên ngọn lửa vào đêm trước lễ St John. Dân chúng cũng tin là nằm ngủ trên một cành SJW trước ngày sinh nhật Ông Thánh này thì sẽ được bình an suốt năm. Từ nhiều thế kỷ trước, nó được coi như có thể chữa được bệnh u sầu, nhiễm độc tiểu tiện, tiêu trừ vi trùng, mau lành vết thương ngoài da. SJW được Hippocrates, Dioscorides giới thiệu, rồi bị rơi vào lãng quên cho đến vài chục năm mới đây, một loại trà từ cây này được tung ra thị trường quảng cáo là trị được trầm cảm, lo âu.

Đại học Duke được Viện Quốc Gia Bệnh Tâm Thần trợ cấp trên 4 triệu đồng để thực hiện dự án 3 năm nghiên cứu sự an toàn và công hiệu của SJW trong việc trị bệnh u sầu.

Tại Âu Châu, nhất là bên Đức, SJW được các bác sĩ biên toa cho bệnh nhân 7 lần nhiều hơn thuốc Prozac; được mệnh danh là Prozac Thiên Nhiên và được xếp hạng có công dụng trung bình, giữa hai loại âu dược trị trầm cảm chính hiện có.

Ở Hoa Kỳ SJW hiện rất được nhiều ngưòi dùng để chữa trầm cảm, vì được coi là an toàn, công hiệu, rẻ tiền, và không cần toa bác sĩ.

Mới đây, SJW được các chuyên viên về bệnh AIDS của Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ để tâm nghiên cứu vì một dược chất của cây này có tác dụng vào một vài loại siêu vi trùng, trong đó HIV.

Phân lượng thường dùng là 300mg, 3 lần mỗi ngày, trong 8-10 tuần lễ.

Tác dụng phụ của nó ít hơn tác dụng phụ của một vài âu dược trị trầm cảm, như ngứa, mệt mỏi, lên kí, nhức đầu, đau bụng nhất là mẫn cảm của da ( cháy da) khi đi ra ngoài nắng. Ở thú vật, SJW có tác dụng vào tử cung, nên khi có thai, ta cần cẩn thận khi dùng thuốc này.

Chưa có bằng chứng tác dụng tương quan giữa SJW với các âu dược khác. Tuy nhiên nếu đang uống âu dược trị trầm cảm thì nên cho bác sĩ hay khi dùng dược thảo St John.

3-Saw Palmetto.-

Trong tương lai gần đây, Saw palmetto có hy vọng là dược thảo đầu tiên được chứng nhận là có công dụng trị một bệnh đặc biệt.

Cơ quan Thực Phẩm và Dược Phẩm Hoa Kỳ dang cứu xét đơn xin xác nhận giá trị cuả SJW để trị trầm cảm, Ginkgo Biloba để trị rối loạn trí tuệ và Saw Palmetto, trị xưng nhiếp hộ tuyến.

Đây là một loại cây cọ cao từ 1 tới 3 thước, lá rộng tới gần một thước, mọc trên bãi cát từ miền Nam Carolina tới Florida, Texas. Vào mùa xuân, cây nở rộ hoa mầu trắng, trái của nó bắt đầu chín mọng từ mùa Hạ sang mùa Thu.

Thổ dân lục địa Mỹ Châu đã dùng trái cây cọ này để ăn và trị vài chứng rối loạn tiểu tiện đàn ông từ năm 1700. Trong nửa đầu của thế này, nó còn được dùng cho tới năm 1950 thì bị loại ra khỏi danh sách của National Formulary Hoa Kỳ, trong khi đó thì ở Âu châu nó vẫn còn rất phổ thông.

Trái Saw Palmetto có tác dụng ức chế nam kích thích tố testosterone, giảm sưng và viêm của tế bào và được dùng nhiều ở Âu châu để trị chứng sưng không ung thư nhiếp hộ tuyến. Tại Đức, cơ quan y tế đã chấp thuận cho bán một dược phẩm tinh chế hoà tan trong mỡ của cây cọ này.

Tập san y học của Hiệp Hội Y Sĩ Hoa Kỳ, số tháng 9 năm 1998, lần đầu tiên đã để ý và nêu ra nhiều cuộc nghiên cứu trên khắp thế giới về công dụng của Saw Palmetto trong việc trị sưng nhiếp tuyến.

Phí tổn mỗi ngày cho dược thảo này từ 25 tới 50 mỹ kim, trong khi âu dược thì tốn tới 200 mỹ kim.

Theo Physicians Desk Reference for Herbal Medecines, Saw Palmetto được dùng trong giai đoạn đầu của sưng nhiếp hộ tuyến lành.

Tác dụng phụ rất ít như vài rối loạn về tiêu hoá (ói mửa, đau bụng nhẹ ). Mồi ngày uống từ 1 tới 2 gờ ram.

Một điểm quan trọng là, nhiều người vì dùng thuốc này mà không đi khám bác sĩ để xác định tính lành- dữ của sưng nhiếp hộ tuyến. Nên khi khám phá ra thì ung thư bộ phận này đã đi tới giai đoạn bất khả trị.

4- Ephedra.-

Họ Ephedra, ta gọi là Ma Hoàng, gồm có nhiều loại, mọc ở Châu Âu, Trung Hoa, và đã được dùng làm thuốc chữa bệnh ở Trung Hoa từ trên 5000 năm.

Dược chất chính cuả Ma Hoàng là chất Ephedrine đã được nhà hoá học Nhật Bản N. Nagai phân tích từ năm 1887. Đến năm 1924, giáo sư K.K. Chen ở Đại học Bắc Kinh công bố đặc tính trị liệu cuả Ephedrine trong các bệnh suyễn, nghẹt mũi, kích thích thần kinh. Ephedrine làm thư dãn ống phổi, khiến không khí lưu thông dễ dàng, đồng thời làm tăng huyết áp, tăng nhịp tim.

Ở Việt Nam, Ma Hoàng được nhập cảng từ Trung Hoa và được dùng để trị các bệnh như ngoại cảm phong hàn, ho hen.

Hiện nay, ở Mỹ, thuốc có chất Ephedrine được quảng cáo có công dụng trong việc làm giảm kí, mà nhà sản xuất gọi là herbal phen-phen, thay thế cho âu dược Pondimin, Redux hiện đã bị cấm bán vì nhiều tác dụng phụ nguy hiểm.

Vì có tính kích thích thần kinh , làm sảng khoái, nên nhiều tay nghiền cần sa, ma túy cũng dùng Ephedra để yêu đời hơn. Một số lực sĩ đã lạm dụng thuốc này để có bắp thịt nở nang.

Ephedra có nhiều tác dụng phụ như làm mất ngủ, nhức đầu, nóng nẩy, cao huyết áp, sạn thận, kinh phong, rối loạn nhịp tim, kích thích não và tim, đôi khi đưa tới tử vong. Do đó, cơ quan FDA rất quan tâm tới dược thảo này và đề nghị giới hạn phân lượng dùng mỗi ngày không quá 24mg.

5- Họ Aloe-

Nhiều gia đình ta ở trong bếp đôi khi thấy có trồng một chậu nhỏ cây Aloe, vừa làm cảnh vừa dùng lá nó để đắp lên vết phỏng da xẩy ra trong khi nấu nướng.

Loại cây này có nguồn gốc ở Đông Nam Châu Phi, đã có tài liệu ghi nhận công dụng trị bệnh từ năm 1750 TTC. Người dân Ai Cập dùng trị da nhiễm trùng từ 550 TTC. Danh Mục Dược Khoa Hoa Kỳ năm 1820 đã ghi công dụng của Aloe vera và từ năm 1920 đã được trồng để dùng trong dược phòng.

Từ lá Aloe, người ta lấy ra được một chất gel để dùng ngoài da và chất nước vắt để giúp nhuận tràng, chữa lở bao tử. Gel Aloe làm vết thương mau lành bằng cách làm co vết thương và tăng tiết chất collagen, nên được dùng khi bị phỏng da, chầy da. Mới đây nó cũng được dùng để trị bệnh vẩy nến da (Psoriasis) và làm tăng cường tính miễn nhiễm của cơ thể.

Trên thị trường, gel Aloe được giới thiệu như có công hiệu làm mềm da, sạch da, chống ngứa, diệt trùng, làm da tăng trưởng mau, đôi khi trị cả da dị ứng với lá thường xuân (poison ivy).

Bên Nhật, Aloe còn được dùng để trị bệnh ung thư do khả năng chống viêm và chặn tăng trưởng tế bào ung thư.

Kết qủa nghiên cứu tại University of Maryland cho thấy Aloe có thể diệt siêu vi trùng bệnh mụn giộp ( herpes ) và vài loại trùng bệnh cúm, trong khi đó , thử nghiệm tại University of Missouri cho thấy Aloe gel có thể dùng để ngừa thụ thai.

Aloe kích thích tuỵ tạng bài tiết Insulin, nên đang có nghiên cứu dùng Aloe để trị bệnh tiểu đường.
Kết luận

Kỹ nghệ bào chế dược thảo ở khắp nơi trên thế giới hiện giờ đang rất phát triển để đáp ứng nhu cầu của người dân. Các nhà sản xuất cũng đang tranh đấu để dược thảo của họ sớm được đối xử công bằng như âu dược chứ không phải chỉ là thực phẩm phụ như hiện nay. Triển vọng đó chắc cũng không còn quá xa, vì ngay tại Mỹ, Quốc Hội cũng như Hiệp Hội Y Sĩ Hoa Kỳ đã quan tâm tới vấn đề dược thảo và các phương pháp trị liệu không chính thống mỗi ngày một phổ thông này.

 


GỐC TỰ DO VÀ CHẤT CHỐNG OXY-HOÁ.
Trong cơ thể con người, thường xuyên diễn ra nhiều sinh hoạt hoặc xây dựng hoặc huỷ hoại. Có những chất tưởng như là thực phẩm chính của tế bào nhưng đồng thời cũng lại làm hại tế bào. Có những phân tử gây ra tổn thương thì cũng có những chất đề kháng lại hành động phá phách này. Gốc tự do, oxygen và chất chống oxy hóa là một thí dụ. Những phân tử này có liên hệ với nhau và ảnh hưởng tới cơ thể con người rất nhiều, nhất là ở giai đoạn cuối của cuộc đời.

Ngoài ra, một trong nhiều lý thuyết cố gắng giải thích nguyên nhân sự lão hóa, lão suy là tác dụng của những gốc tự do vào các phân tử trong cơ thể. Và để trì hoãn tiến trình này, các chất chống oxy hóa đã được nhiệt liệt giới thiệu và rất nhiều người cao tuổi hiện nay đang dùng.

Xin cùng quý vị tìm hiểu thêm về những dữ kiện này.

Gốc Tự Do

Theo định nghĩa, Gốc Tự Do ( Free radical ).là bất cứ phân tử hóa chất nào chỉ có một điện tử duy nhất (electron mang điện âm) hay một số lẻ điện tử.

Xin nhắc lại, về khía cạnh hóa học, phần nhỏ nhất của vật thể gọi là nguyên tử. Mỗi nguyên tử có một nhân với một số chẵn điện tử xoay chung quanh, giống như các hành tinh quay chung quanh mặt trời. Phân tử gồm một số nguyên tử dính với nhau do tác dụng của các đôi điện tử.

Một vài khi, trong diễn tiến hóa học, một điện tử bị tách rời khỏi nhóm và phân tử đó trở thành một gốc tự do, với số lẻ điện tử. Do đó, nó không cân bằng, đầy đủ nên rất bất ổn, dễ tạo ra phản ứng. Nó luôn luôn tìm cách chiếm đoạt điện tử mà nó thiếu từ các phân tử khác, và lần lượt tạo ra một chuỗi những gốc tự do mới, gây rối loạn cho sinh hoạt bình thường của tế bào. Các khoa học gia ví chúng như những tên sở khanh chuyên đi ve vãn, phá hoại hạnh phúc của các cuộc hôn nhân đang êm đẹp. Trong cuộc đời của một người sống tới 70 tuổi, thì có chừng 17 tấn gốc tự do được tạo ra như vậy.

Năm 1954, bác sĩ Denham Harman thuộc Đại học Berkeley, California, là khoa học gia đầu tiên nhận ra sự hiện hữu của gốc tự do trong cơ thể với nguy cơ gây ra những tổn thương cho tế bào.Trước đó, người ta cho là gốc này chỉ có ở ngoài cơ thể.

Gốc tự do có tác dụng không tốt cho cơ thể liên tục ngay từ lúc con người mới sanh ra và mỗi tế bào chịu sự tấn công của cả chục ngàn gốc tự do mỗi ngày. Ở tuổi trung niên, cơ thể mạnh, trấn áp được chúng, nhưng tới tuổi cao, sức yếu, gốc tự do lấn át, gây thiệt hại nhiều gấp mười lần ở người trẻ. Nếu không bị kiểm soát, kiềm chế, gốc tự do gây ra các bệnh thoái hóa như ung thư, xơ cứng động mạch, làm suy yếu hệ thống miễn dịch gây dễ bị nhiễm trùng, làm giảm trí tuệ, teo cơ quan bộ phận người cao niên.

Nó phá rách màng tế bào khiến chất dinh dường thất thoát, tế bào không tăng trưởng, tu bổ, rồi chết. Nó tạo ra chất lipofuscin tích tụ dưới da khiến ta có những vết đồi mồi trên mặt, trên mu bàn tay. Nó tiêu hủy hoặc ngăn cản sự tổng hợp các phân tử chất đạm, đường bột, mỡ, enzyme trong tế bào. Nó gây đột biến ở gene, ở nhiễm thể, ở DNA, RNA. Nó làm chất collagen, elastin mất đàn tính, dẻo dai khiến da nhăn nheo, cơ khớp cứng nhắc.

Theo các nhà nghiên cứu, gốc tự do hủy hoại tế bào theo diễn tiến sau đây: Trước hết, gốc tự do oxy hóa màng tế bào, gây trở ngại trong việc thải chất bã và tiếp nhận thực phẩm, dưỡng khí; rồi gốc tự do tấn công các ty lập thể, phá vỡ nguồn cung cấp năng lượng. Sau cùng, bằng cách oxy hóa, gốc tự do làm suy yếu kích thích tố, enzym khiến cơ thể không tăng trưởng được.

Trong tiến trình hóa già, gốc tự do cũng dự phần và có thể là nguy cơ gây tử vong. Hóa già được coi như một tích tụ những đổi thay trong mô và tế bào. Theo bác sĩ Denham Harman, các gốc tự do là một trong nhiều nguyên nhân gây ra sự hoá già và sự chết cuả các sinh vật. Ông ta cho là gốc tự do phản ứng lên ty lạp thể, gây tổn thương các phân tử bằng cách làm thay đổi hình dạng, cấu trúc, khiến chúng trở nên bất khiển dụng, mất khả năng sản xuất năng lượng.

Do quan sát, người ta thấy gốc tự do có ít ở các sinh vật chết non, có nhiều hơn ở sinh vật sống lâu. Người cao tuổi có nhiều gốc tự hơn là khi người đó còn trẻ.

Theo các nhà khoa học thì gốc tự do có thể là thủ phạm gây ra tới trên 60 bệnh, đáng kể nhất gồm có: bệnh vữa xơ động mạch, ung thư, Alzheimer, Parkinson, đục thuỷ tinh thể, bệnh tiểu đường, cao huyết áp không nguyên nhân, xơ gan.

Tuy nhiên, không phải là gốc tự do nào cũng phá hoại. Đôi khi chúng cũng có một vài hành động hữu ích. Nếu được kiềm chế, nó là nguồn cung cấp năng lượng cho cơ thể; tạo ra chất mầu melanine cần cho thị giác; góp phần sản xuất prostaglandins có công dụng ngừa nhiễm trùng; tăng cường tính miễn dịch; làm dễ dàng cho sự truyền đạt tín hiệu thần kinh, co bóp cơ thịt.

Trong cơ thể có rất nhiều loại gốc tự do, mà các gốc nguy hiểm hơn cả là superoxide, ozone, hydrogen peroxide, lipid peroxy nhất là hydroxyl radical, một gốc rất phản ứng và gây ra nhiều tổn thương.

Gốc tự do được tạo ra bằng nhiều cách. Nó có thể là sản phẩm của những căng thẳng tâm thần, bệnh hoạn thể xác, mệt mỏi, ô nhiễm môi trường, thuốc lá, dược phẩm, tia phóng xạ mặt trời, thực phẩm có chất mầu tổng hợp, nước có nhiều chlorine và ngay cả oxygen.

Oxygen- Sự oxy hoá- Chất chống oxy hoá.

Oxygen là dưỡng khí thiết yếu cho mọi động vật, thảo mộc, ngoại trừ một số nhỏ sinh vật kỵ khí.

Đối với loài người, ở một mức độ trung bình, oxygen tham dự vào sự biến hóa căn bản trong cơ thể để tạo ra năng lượng cung ứng cho nhu cầu sinh hoạt cuả toàn bộ tế bào. Không khí ta thở có 20% dưỡng khí, vừa đủ cho nhu cầu của cơ thể và sức chịu đựng của phổi. Khi thở oxy nguyên chất khoảng 6 giờ, ta thấy nặng ngực và nếu tiếp tục thở lâu hơn nữa, các phế nang sẽ bị tổn thương.

Oxygen phản ứng trên vật chất và gây nhiều thay đổi cho các phân tử này. Một miếng thịt để ra ngoài lâu sẽ thâm, miếng táo cắt đôi trở mầu nâu, cây đinh sắt sét rỉ, cục bơ thơm trở mùi ôi khét. Chúng đã bị oxy hóa và trở thành vô dụng, đôi khi nguy hiểm. Trong cơ thể, phản ứng oxy hóa tạo ra những gốc tự do. Nhưng may mắn là cơ thể ta tạo ra được mấy loại enzym có khả năng trung hòa gốc tự do và mỗi phân tử enzym có thể vô hiệu hóa nhiều ngàn gốc. Các enzym đó túc trực trong cơ thể trước khi có phản ứng tạo ra gốc tự do nên nó kịp thời đối phó với những chàng sở khanh hoá chất hoang đàng này. Các enzym chính là superoxide dismutase (SOD ), catalase và glutathione. Mỗi enzym liên hệ vào từng phản ứng hóa học riêng biệt

Ngoài ra ta có thể trung hòa gốc tự do bằng cách dùng chất chống oxy hóa ( antioxidant ). Các chất này chỉ mới được nhắc nhở nhiều trong dân chúng cũng như y giới khoảng mươi năm gần đây. Đã có nhiều khoa học gia để tâm nghiên cứu về công dụng của chất chống oxy hóa và tây y học cũng đã có thái độ thiện cảm hơn với các chất này.

Trong một cuộc hội thảo của các bác sĩ chuyên môn về tim năm 1995, 90 % tham dự viên nhận là mình có uống chất chống oxy hoá nhưng chỉ có 75 % biên toa cho bệnh nhân. Lý do là nhiều người vẫn cho là không có đủ dữ kiện xác đáng để khuyến khích bệnh nhân dùng thêm các chất này. Hiệp Hội Tim Mạch Hoa Kỳ đã khuyến cáo: Một chỉ dẫn thận trọng và khoa học nhất về vấn đề này là dân chúng nên ăn thực phẩm có nhiều chất chống oxy hóa trong rau, trái cây và các loại hạt, thay vì uống thêm chất antioxidant.

Nhưng dân chúng ” có bệnh thì vái tứ phương”, nên nhiều khi cũng quên các lời khuyên này. Và họ vẫn dùng.

Chất này có khả năng làm mất hoạt tính của gốc tự do tích tụ trong cơ thể, biến chúng thành những phân tử vô hại, đồng thời cũng có khả năng duy trì cấu trúc và chức năng của tế bào.

Antioxidant chính yếu, phổ thông nhất là sinh tố C, beta-carotene và sinh tố E. Sau đây là đặc điểm, công dụng của các chất trên trong phạm vi chống gốc tự do:

a- Sinh tố C.-

Đây là chất chống oxy hóa căn bản ở trong huyết tương, nó tiêu hóa gốc tự do và ngăn không cho gốc này xâm nhập các phân tử cholesterol LDH. Nó tăng cường sự bền bỉ của mao mạch, ngăn không cho gốc tự do xâm nhập qua màng tế bào, đẩy mạnh mau lành vết thương, kích thích sản xuất kích thích tố, kháng thể, acétylcholine, ngăn chặn tác dụng có hại của oxygen. Sinh tố C có nhiều trong trái cam, chanh, quít, dâu, cà chua, lá rau xanh, ớt xanh, dưa canteloupe, broccoli. Khi nấu chín, sinh tố ở các thực phẩm kể trên bị tiêu huỷ, nên nếu ăn sống được thì tốt hơn.

Sinh tố C hoà tan trong nước, và bài tiết khỏi cơ thể dễ dàng qua thận do đó ta không bị ngộ độc khi uống phân lượng cao. Phân lượng trung bình mồi ngày là 60mg, tối đa từ 500 tới 1500mg.

Trong phạm vi chống gốc tự do, nhiều người cho là phải dùng phân lượng cao hơn. Theo Tiến sĩ Linus Pauling, hai lần chiếm giải Nobel về khoa học, thì ta có thể dùng từ 3000 mg tới 12,000 mg mỗi ngày. Cá nhân ông ta uống 18 gr một ngày và sống tới tuổi 93. Uống trên 2000 mg một ngày, có thể gây tiêu chẩy nhẹ.

b- Beta- carotene.-

Được khám phá ra cách đây hơn 150 năm từ lớp mầu cam ở củ cà rốt, beta-carotene hiện giờ là loại chống oxy hóa được tiêu thụ rất nhiều trên thị trường. Chất này cần cho sự tăng trưởng và cho chức năng của các mô, của xương; tăng cường tính miễn dịch, giảm nguy cơ gây ung thư, giúp thị lực tốt hơn. Nó có thể biến đổi thành sinh tố A.

Beta-carotene có trong củ cà rốt, khoai lang đỏ, bí ngô, đu đủ, cam, ớt.

Phân lượng thông thường là 50 IU mỗi ngày, tối đa có thể lên đến 10,000 IU/ ngày .

Beta-carotene không có tác dụng phụ nguy hại như sinh tố A.

c-Sinh tố E .-

Kết quả nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy sinh tố E chặn phản ứng của gốc tự do, ngăn sự oxy hóa cholesterol LDL và các chất mỡ khác, nâng cao tính miễn dịch. Vì chặn sự oxy hóa cholesterol, sinh tố E làm giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não.

Sinh tố E là chất chống oxy hóa hòa tan căn bản trong mỡ của cơ thể, vì nó ngăn chặn sự oxy hóa chất béo trong thực phẩm chiên rán ta dùng hàng ngày.

Sinh tố E có nhiều trong rau, hột giống có dầu, gan, trứng, bơ, mầm lúa mì.

Phân lượng trung bình mỗi ngày là 30 IU, tối đa 100-400 IU.

Với phân lượng cao hơn, ta có thể bị mệt mỏi, nhức đầu, đau bụng, ói mửa, đi tiêu chẩy.

Các chất chống oxy hóa khác gồm có: selenium, bioflavonoids ,lutein, lycopene, coenzyme Q 10, alpha-lipoic acid và ubiquinone cũng được quảng cáo chống lão hóa, nhưng không phổ thông như sinh tố C, E và Beta Caroten.

Điểm cần nhớ là các antioxidant cộng tác với nhau để loại trừ gốc tự do. Mỗi antioxidant có tác dụng riêng với từng loại gốc tự do ở mỗi tế bào. Cho nên các chất chống oxy hóa đều có giá trị như nhau.

 

<< Bắt đầu < Trang trước 1 2 3 4 5 6 Trang tiếp theo > Cuối >>

JPAGE_CURRENT_OF_TOTAL