NGƯỜI
CAO NIÊN VIỆT NAM
TẠI HOA KỲ
******************************
Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC
I-Nhập đề.
Hiệp
Chủng Quốc Mỹ là đất hứa đối với nhiều triệu con người trên khắp thế giới khi
họ bắt buộc phải rời bỏ quê hương chôn rau cắt rốn của họ. Họ ra đi để tránh sự
đàn áp khủng bố chính trị, giới hạn tôn giáo, tước bỏ quyền tự do căn bản của
con người, áp đặt bởi các chế độ độc tài, độc đảng toàn trị.
Từ năm 1975, nước Mỹ đã mở rộng cửa đón
tiếp cả triệu người tỵ nạn chính trị từ miền Nam Việt Nam. Đây là số
lượng cao nhất của những người tị nạn thuộc cùng một sắc dân được tiếp nhận vào
Hoa Kỳ, một quốc gia mà dân chúng đa số được du nhập từ khắp nơi trên trái đất.
Trong số trên một triệu người Việt tại
Mỹ, người cao tuổi chiếm một tỷ lệ khá cao. Họ đã cố gắng thích nghi với xã hội
mới và cũng có nhiều vấn đề như những người già khác ở đây. Nhưng họ đến Hoa kỳ
từ một nền văn hóa, một nếp sống khác biệt, trong những hoàn cảnh bất lợi nên
việc thích nghi có phần khó khăn hơn và đáng cần được tìm hiểu, giúp đỡ.
II-Các hoàn cảnh
đưa đến việc Người Việt Nam
di tản tới Hoa Kỳ.
Kể từ ngày 30 tháng Tư năm 1975 tới nay, con
số người Việt từ miền Nam Việt Nam tới định cư tại Hoa Kỳ tăng rất mau (tới
150%) nhất là trong các thập niên 1980 và 1990. Theo kết quả cuộc thống kê dân
số thực hiện năm 2000, số người Việt Nam hiện có trên đất Mỹ là 1,122,528
người, đứng hàng thứ tư sau người Trung Hoa ( 2,400,000), Phi Luật Tân(
1,800,000) Ấn Độ/Nam Á châu( 1,6 ) và đông hơn người Đại Hàn( khoảng 1 triệu).
Có người đưa ra con số cao hơn, khoảng 1,500,000. Đây là một con số nhẩy vọt
khá nhanh. Quá phân nửa số trên một triệu người Việt tập trung ở các tiểu bang California, Texas, Louisiana, Maryland. Trước năm 1975, chỉ có dăm ngàn
người Việt sống trên đất Mỹ, mà hầu hết là vợ con các quân dân chính người Mỹ
đã từng phục vụ ở miền Nam Việt Nam, hoặc du học sinh, nhân viên ngoại giao
đoàn Việt Nam Cộng Hòa.
Người Việt tới Mỹ theo nhiều đợt khác
nhau.
Khi miền Nam Việt Nam sắp thất
thủ thì một số người có liên hệ với
chính quyền Hoa Kỳ được ưu tiên di tản, cộng thêm quân cán chánh Việt Nam Cộng
Hòa có quen biết với tòa Đại sứ hoặc Bộ Tư Lệnh quân đội Mỹ Sài Gòn. Họ ra đi
bằng máy bay. Sau đó một số khác chạy thoát bằng đường biển và được hạm đội
đồng minh đón vớt ngoài hải phận Việt Nam. Với lo ngại sẽ có một cuộc tắm
máu, trả thù bởi quân đội chiến thắng Cộng Sản, dân chúng đều tìm đủ mọi phương
tiện ra đi. Đó là thời gian từ năm 1975 tới 1978.
Từ 1978 đến 1982, tại Việt Nam có phong trào
chống kiều dân người Trung Hoa nên một đợt di tản khác lại xẩy ra gồm cả người
Việt lẫn người Hoa. Họ ra đi bằng những chiếc thuyền lớn nhỏ đủ loại và được
mệnh danh là “Boat People”. Người ta tìm cách vượt biên, vượt biển ra đi, tới
các quốc gia lân cận Việt Nam như Phi Luật Tân, Mã Lai, Hồng Kông, Thái Lan,
Tân Gia Ba.
Họ đi tìm sự sống trong cái chết, chỉ
mong tới được bất cứ mảnh đất nào có tự do, dân chủ. Nhiều người, có khi cả gia
đình, thiệt mạng trên biển cả vì bão tố, làm mồi cho cá mập, hoặc bị hải tặc
cướp hiếp ngoài khơi.
Tới
đất liền, những người sống sót được đưa vào trong các trại tị nạn, sống trong
lo âu, thiếu thốn chờ đợi ngày được nhận vào các quốc gia đệ tam.
Cảnh
vượt biển với nhiều chết chóc thảm thương đã khiến quốc tế lưu tâm tìm cách
giải quyết. Nên sau nhiều điều đình, thảo luận, những chương trình nhân đạo ra
đi có trật tự được thực hiện. Người Việt tới Mỹ bằng diện đoàn tụ gia đình,
diện con lai mang dòng máu người Mỹ và diện tù nhân chính trị.
Diện cuối này còn được gọi là diện
Humanitarian Operation HO. Năm 1988, đích thân Tổng Thống Ronald Reagan đã ký
ban hành Đạo luật giúp đỡ những cựu tù nhân cải tạo từ ba năm trở lên tới định
cư tại Mỹ.
Họ
gồm quân dân chính các cấp của chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã bị chính quyền Cộng
sản tập trung, đưa đi cải tạo. Người dăm ba tháng, người vài ba năm, hầu hết
mươi mười lăm năm, họ bị cô lập trong các trại tập trung rải rác khắp nước Việt
Nam.
Các phương thức kiềm chế, hành xác khắc nghiệt được mang ra áp dụng đối với tù
nhân. Họ phải lao động chân tay ban ngày để tự sinh tự tồn, học tập về lý
thuyết Mác, Lê ban đêm để “gột bỏ tàn tích đế quốc”. Nhiều người bỏ xác trong
tù. Hầu hết suy nhược sức khỏe cả về thể xác lẫn tâm hồn khi được thả về với
gia đình.
Về tới nhà, họ tiếp tục bị chính quyền
Cộng Sản quản thúc, theo dõi từng hành động. Họ không thể kiếm được việc làm vì
là ngụy quân ngụy quyền, thẻ căn cước được đóng con dấu oan nghiệt phân loại đỏ
chói. Con cái của họ không được học cao vì thuộc thành phần cha mẹ có lý lịch
xấu. Họ chịu nhiều cay đắng vì đã
bị người bạn đồng minh bỏ rơi một thành trì bảo vệ tự do trước đây, rồi lại bị
đối xử tàn tệ bởi chế độc độc tài, độc đảng. Họ cũng buồn lòng với những đồng
ngũ, những cấp lãnh đạo đã tháo chạy trước khi cuộc chiến chấm dứt. Một số khi
trở về nhà, thì người bạn tao khang đã ôm thuyền bến khác hoặc đã rời khỏi quê
hương, tìm đời sống mới.
III-Hội nhập vào
xã hội mới
Trong một phần tư thế kỷ, hơn một triệu
người Việt này đã hình thành một khối thiểu số có những sắc thái đặc biệt vừa
làm phong phú và vừa thay đổi một phần nào cấu trúc căn bản của Hiệp Chủng Quốc
Mỹ.
Họ đi từ số không, không có một nền tảng
có sẵn như người Trung Hoa hoặc di dân từ các quốc gia Âu Châu tới Mỹ từ cả
trăm năm trước. Ho vật lộn với nhiều khó khăn để sinh tồn, để thích nghi với
nếp sống mới và để tạo dựng một tương lai vững chắc cho thế hệ con cháu. Họ âm
thầm làm việc, chịu đựng mọi thử thách, kỳ thị trong những năm đầu. Nếu đa số
dân chúng Mỹ không muốn quay lưng trước hoàn cảnh tuyệt vọng của con dân một
quốc gia đồng minh với họ trước đây, thì cũng có một thiểu số lạnh nhạt với lớp
di dân này. Trong những năm đầu, họ được phân tán khắp 50 tiểu bang để sự cứu
giúp được dễ dàng cũng như tránh sự tụ nhập quá đông người Việt ở một địa
phương. Nhưng rồi dần dà, sau khi đã có lông có cánh, họ cũng tìm về với nhau,
trong những tụ điểm thích hợp để tương trợ, dìu nhau mà đi lên. Dù sao thì “một
giọt máu đào cũng hơn ao nước lã”. Và “Một cây làm chẳng nên non; Ba cây chụm
lại lên hòn núi cao”.
Với bản tính nhẫn nhục, cần cù, thực tế,
dễ thích nghi, có nhiều sáng kiến nhỏ, họ đã tham gia vào nhiều khía cạnh khác
nhau của đời sống Mỹ quốc. Họ đã tạo dựng nên những cơ sở kinh tế, thương mại
vững chắc, củng cố và phổ biến văn hóa Việt Nam vào nền đa văn hóa địa phương.
Các thế hệ Việt Nam thứ hai đã mau lẹ tiến tới
để thu nhập tinh hoa kiến thức qua nền giáo dục đa diện của nước Mỹ. Họ đã có
nhiều đóng góp khoa học, kỹ thuật đáng khen ngợi cũng như cung hiến cho nền
hành chánh tiểu bang và liên bang nhiều chuyên gia có khả năng điều hành, lãnh
đạo. Sự thành công của thế hệ này đã tạo ra nhiều ngạc nhiên cho con dân bản
xứ.
Càng ngạc nhiên hơn khi ta nhìn lại khả
năng của nhóm di dân mới. Tới Mỹ không sửa soạn với hai bàn tay trắng. Họ tức
tưởi, đánh tháo rời bỏ nơi chôn rau cắt rốn trong vội vàng, hoảng sợ, không kịp
suy nghĩ, nói chi đến sửa soạn. Họ không biết là sẽ đi đâu, không biết tương
lai sẽ ra sao. Họ vào nước Mỹ đa số không nói được tiếng Anh, hầu hết không có
một Mỹ kim trong túi. Họ đến từ một văn hóa với nhiều khép kín, ràng buộc vào
một nếp sống phóng khoáng, tự do. Họ lạc vào rừng người có cái nhìn khác biệt
về chủng tộc, giống tính. Họ chóng mặt trước sự tiến bộ, phồn thịnh của một
quốc gia mới chỉ có hơn hai trăm năm lập quốc.
IV-Những khó
khăn khi hội nhập vào xã hội Hoa Kỳ
1-Khó khăn về ngôn ngữ, việc làm.
Ngôn ngữ xứ người là bước cản trở lớn
nhất cho người tị nạn, từ kiếm việc tới mọi giao dịch. Đã có nhiều giai thoại
tức cười cũng như đáng buồn xẩy ra vì sự không diễn tả được ý nghĩ bằng ngôn
ngữ địa phương mới tới.
Vốn
được đào tạo trong nền văn hóa Pháp rồi chuyển sang chương trình tiếng Việt,
nên nhiều người cao tuổi có một vốn liếng rất giới hạn về Anh Ngữ. Họ gặp nhiều
khó khăn trong việc đối thoại với người bảo trợ, với hàng xóm mới, khi đi tìm
xin việc cũng như giao tế hàng ngày. Nhiều người có cảm tưởng “ có mắt như mù,
có tai như điếc, có miệng như câm”. Chỉ vì không biết tiếng Anh. Mà Anh ngữ là
chiếc chìa khóa vạn năng giúp di dân hội nhập vào xã hội Mỹ nhanh chóng hơn.
Ngoài vấn đề ngôn ngữ, đa số người tị
nạn đều không có một nghề nào khả dĩ có thể dùng ngay trong xã hội mới, ngoài
việc làm lao động chân tay tại các nông trại, tiệm ăn, tiệm tạp hóa… Một số
theo học các lớp Anh ngữ căn bản rồi học những nghề chỉ cần huấn luyện ngắn
hạn. Mục đích của họ là làm bất cứ việc gì để có thể nuôi sống gia đình, khỏi
trở thành cây chùm gửi trên đất Mỹ,.
Trong gia đình tỵ nạn Việt Nam, mọi người
đều làm việc. Lợi tức thu hoạch được góp chung với nhau rồi chi tiêu dè sẻn, để
dành. Cha mẹ nhiều khi làm hai, ba công việc, hết ngày lại đêm. Con cái đi học
về là đi rửa chén bát, làm bồi bàn tại các tiệm ăn. Với sự lao động tối đa, chi
tiêu tối thiểu, chỉ dăm năm sau là họ đã dành dụm được một số vốn đủ để mua nhà
hoặc mở cơ sở thương mại. Họ đã nghiêm chỉnh áp dụng câu ngạn ngữ “ khéo ăn thì
no, khéo co thì ấm” vào đời sống thực tiễn ở miền đất mà khi đó họ coi chỉ là
tạm cư. Họ vẫn nghĩ đến một ngày có thể trở về quê hương trong hoàn cảnh thuận
tiện, tự do.
2-Khó khăn trong đời sống mới:
Vào một xã hội hoàn toàn xa lạ, từ cách
ăn uống, khí hậu, địa dư, đối xử, giao tế, sức khỏe, dịch vụ y tế, cho nên
người tỵ nạn hoàn toàn lạc lõng. Chính
quyền Mỹ, các cơ quan thiện nguyện đã phải kiên nhẫn lắm mới giúp họ làm quen
với nếp sống này. Họ cố gắng hội nhập, đôi khi hầu như phải cắn răng nhẫn nhục,
vì đâu đây vẫn phảng phất một phân biệt, một cái nhìn khác lạ tới mầu da của
con người. Nhiều di dân đến trước đã có cảm nghĩ là Tượng Thần Tự Do quay mặt
về Âu châu và xoay lưng về phía Á Châu, ám chỉ sự kỳ thị với người Mỹ gốc Á. Mỹ
Trắng thì gọi là dân Mỹ, Mỹ Phi Châu gọi là Mỹ đen, còn các sắc dân khác thì là
“công dân hạng hai”. Họ thấy như là con ghẻ trên đất nước này.
3-Khó khăn trong nếp sống gia đình.
Đa số gia đình Việt nam vẫn còn giữ được
truyền thống tốt đẹp cũ. Tuy nhiên vài vấn vấn đề đã được nêu ra ở một số không
nhỏ gia đình.
Khi hội nhập vào nước Mỹ, người Việt bị
đặt vào môi trường trong đó họ phải đối đầu với hai nền văn hóa khác biệt: Hoa
kỳ với khuynh hướng tự do, cởi mở giữa con cái với cha mẹ; còn truyền thống
Việt Nam thì dành cho cha mẹ quyền uy tối thượng, cha mẹ đặt đâu con ngồi đó.
Trẻ con dù sinh ra ở Việt Nam, nhưng lớn
lên ở Mỹ, chơi với bạn Mỹ, giáo dục theo lối Mỹ, yêu thích tự do nên đã mau
chóng thích nghi với nếp sống mới. Còn một số các bậc làm cha mẹ thì vẫn giữ
quan niệm xưa, luôn luôn cho mình là đúng, rồi ra lệnh và sắp đặt. Cho nên sự
mâu thuẫn giữa hai thế hệ là điều không thể nào tránh được, nếu không có sự
tương nhượng, thông cảm.
Đã có trường hợp con cái kêu cảnh sát
can thiệp vì cho là bị cha mẹ lạm dụng, hành hạ; những cảnh con cái bỏ cha mẹ
vào nhà người già. Lại cũng có trường hợp, cha mẹ hy sinh vốn liếng, tài sản để
các con vượt biên, đến các nước tự do. Sau vài năm, con cái làm ăn khá vững
vàng bèn bảo lãnh cha mẹ già sang với mục đích phụng dưỡng, đền ơn sinh thành,
dưỡng dục. Nhưng các cụ ở được một thời gian ngắn, niềm vui chưa trọn thì
chuyện buồn đã đến nên muốn bỏ về. Lý do hoặc vì các con thay lòng đổi dạ, hoặc
các cụ nhớ nhà, hoặc nghịch cảnh dâu, rể không sống chung với nhau được. Rồi
lại những hôn nhân dị chủng, ly hôn ly dị của các con làm các cụ đau lòng.
Bình tâm mà nói, nếu nhiều người già coi
đất Mỹ như đất tạm dụng, thì với giới trẻ có ý chí vươn lên, có nghị lực thắng
vượt khó khăn và quyết tâm đạt đến mục tiêu đã đặt ra, nước Mỹ là mảnh đất tốt
lành đã mang đến cho họ những cơ hội để phát triển khả năng. Đây là một cơ hội
không thể có nếu họ còn ở Việt Nam.
Nước Mỹ luôn luôn tạo hoàn cảnh thuận tiện để mọi người, nhất là giới trẻ ngóc
đầu lên, miễn là đừng quá biếng nhác
Rồi giữa vợ chồng với nhau, cũng có vài
trục trặc đối xử. Tương quan vợ chồng bình đẳng hơn. Nhiều người nữ dễ thích
nghi nên thành công mau lẹ. Một số người nam gặp khó khăn hòa nhập vì quá suy
nhược trong thời gian cải tạo, quá vất vả trong những năm chiến tranh. Những so
bì, bất đồng xẩy ra khiến nhiều gia đình đi vào tan vỡ, chia cách.
V-Người Việt Cao
Niên
1-Tổ chức Gia đình Việt Nam
Tại Việt Nam, gia đình là một tập hợp gồm
tất cả mọi người quyến thuộc sống chung dưới một mái nhà. Đứng đầu gia đình là
gia trưởng, thường là người đàn ông. Đơn vị gia đình nhỏ nhất có vợ chồng, con
cái. Nhiều trường hợp đại gia đình, còn có cha mẹ, ông bà của người gia trưởng
và cháu chắt của người này. Ba đời ở chung dưới một mái nhà thì gọi là Tam Đại
đồng đường hoặc tứ, ngũ đại đồng đường khi bốn năm thế hệ sống chung. Càng
nhiều thế hệ với nhau thì gia đình càng được coi là có phúc, hòa thuận. Những
thành viên trong gia đình sống liên đới trách nhiệm với nhau, theo những ràng buộc
cửa miệng, lưu truyền trong dòng họ. Có một tôn ti trật tự, trên kính dưới
nhường, có những quyền lợi bổn phận minh bạch mà mọi người phải tuân theo. Gia
đình coi trọng ý nghĩa” nhất con, nhì của”
2-Vai trò và trách nhiệm người cao niên
trong gia đình Việt Nam.
Gia đình bình thường Việt Nam có cha mẹ
và các con. Người cha là gia trưởng. Người mẹ được đặt ngang hàng với
người cha, phụ giúp và thay thế chồng khi vắng mặt ngắn hạn hoặc dài hạn.
Theo truyền thống, quyền hạn của người gia trưởng rất
lớn. Họ đứng tên chủ nhân tài sản của gia đình, toàn quyền quyết định việc mua
bán, trao đổi. Họ là người giao tế đối ngoại với họ hàng, chòm xóm, chính quyền
cũng nhự sắp xếp việc học hành, nghề nghiệp cũng như hôn nhân cưới gả của con
cái. Người vợ góp ý và lo việc tề gia nội trợ, tay hòm chìa khóa.
Trách nhiệm
của người gia trưởng đối với các thành phần trong gia đình cũng lớn. Họ là
người bôn trải cung ứng mọi nhu cầu vật chất cho toàn thể gia đình từ kế sinh
nhai tới học vấn, nhà ở, gây dựng cơ ngơi cho con cái khi thành bề gia thất.
Cho nên có câu nói: “ Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn
chẩy ra”.
Trong cuộc
di tản 75, người gia trưởng, với sự tiếp tay của người vợ, là người phải đứng
ra lo việc mang gia đình lánh nạn, tới chốn tự do. Tất nhiên cũng có nhiều
trường hợp người vợ phải lãnh vai gia trưởng vì chồng còn ở trong trại cải
tạo.Trong cảnh dầu sôi, lửa bỏng của cuộc chiến đang gấp rút đến hồi kết thúc,
kiếm được phương tiện ra đi không phải là chuyện dễ dàng. Trước viễn vọng trả
thù của chế độ mới, hầu hết ai ai cũng muốn thoát khỏi. Có người nói rằng: “Nếu
cột đèn điện có chân, chúng cũng di tản”. Mà phương tiện di chuyển thì hiếm hoi
giới hạn.
Mang được gia đình tới miền tự do, người gia trưởng lại
chịu nhiều khó khăn khác nữa để gây dựng lại tương lai cho mọi người trong gia
đình.
VI-Diễn tiến tìm hiểu
Tìm hiểu này
có mục đích nêu ra những khó khăn về y tế, xã hội của người cao tuổi Việt nam
trong sự hội nhập vào dòng chính bản xứ và sẽ được thực hiện như sau:
1-Tìm hiểu
về con số của người cao niên Việt Nam
tại Hoa Kỳ
2- Tìm
hiểu những vấn đề y tế, xã hội của người cao niên Việt Nam tại Hoa kỳ
3-Tìm
hiểu, kiểm chứng xem người cao niên Việt Nam làm gì để thích nghi với cuộc đời
mới tại Hoa Kỳ.
4- Đề nghị
phương thức giúp đỡ, hỗ trợ để thích nghi.
.
VII-Phương thức thực hiện
Tìm hiểu đã
được thực hiện theo lịch trình như sau:
1-Tìm hiểu
con số người cao tuổi Việt Nam tại Hoa Kỳ.
Thống kê con
số người di dân Việt Nam tại Hoa Kỳ qua thống kê chính thức của chính quyền;
qua thăm dò ước lượng tại những địa phương có người Việt Nam sinh cư lập nghiệp
tại khắp các tiểu bang Hoa Kỳ. Từ thống kê này, cố gắng tìm ra tỷ lệ người cao
tuổi.
Tổng số
người Việt tại Hoa Kỳ: theo kết quả của Văn Phòng Thống Kê Hoa Kỳ công bố năm
2000 thì con số người Việt tại Mỹ là 1,122,528 người. Có ước lượng khác cho là
số người Việt lên đến 1,500,000. Họ tập trung nhiều vào một số tiều bang như
California; Texas; Washington; Virginia; Massachusett; Florida; Pensylvania;
Louisiana.Theo kết quả thống kê này, ta thấy:
a-Từ năm
1975 tới nay, số trẻ em Việt Nam sinh đẻ ở Mỹ là trên 200,000 người.
b-Lớp trẻ
sanh ở Việt Nam và trưởng thành ở Mỹ là trên 400,000 người;
c- Số người
cao tuổi là khoảng gần 400,000.
2-Sinh hoạt
của người cao tuổi Việt Nam tại Hoa kỳ.
Các hình
thức để có một khái niệm về sinh hoạt của Người Cao Tuổi Việt Nam tại Mỹ là
a-Tiếp xúc
với nhiều tổ chức Cộng đồng người Việt Nam cũng như Hội Người Cao niên Việt
Nam;
b-Theo dõi
qua sự phản ảnh trên truyền thông: phát thanh, truyền hình, báo chí;
c-Qua các
cuộc tiếp xúc trực tiếp với một số người cao tuổi và gia đình;
d- Liên lạc với một số cơ quan công tư
có liên hệ tới người cao tuổi Việt Nam tại Hoa Kỳ.
Tại mỗi địa
phương có người Việt Nam định cư, thường thường đều có một hay hai tổ chức
chung cho cả cộng đồng người Việt. Ngoài ra, còn các tập hợp có tính cách cục
bộ như cộng đoàn các tôn giáo; các hội ái hữu tương trợ, các hội văn hóa, giáo
dục, hội chuyên gia các ngành khác nhau; nhất là các hội đoàn chính trị, tranh
đấu đòi tự do dân chủ cho quê hương, thay đổi chế độ đương thời ; hội bảo vệ
quyền lợi, chính kiến; hội của các quân cán chánh chính quyền Miền Nam khi
xưa… Các sinh hoạt đều có sự tham dự đông đảo của quần chúng nhất là khi có
vấn đề liên hệ tới quyền lợi người dân và chế độ độc đảng toàn trị hiện nay ở
Việt Nam. Họ vẫn không quên rằng họ là những tỵ nạn chính trị, phải rời bỏ quê
hương vì những hậu quả đau thương do chủ nghĩa Cộng sản quốc tế gây ra ở nơi
chôn rau cắt của họ. Trong các hội đoàn này, người cao tuổi được dành cho một
chú tâm đặc biệt vì nhiều kinh nghiệm trường đời cũng như giầu nhiệt tâm.
Về báo chí,
thì tại nhiều thành phố lớn có khi có cả dăm tờ báo, địa phương nhỏ cũng có một
tờ báo hoặc bản tin liên lạc. Các báo này đều dành những cột mục dành riêng nói
về sinh hoạt của người cao niên. Truyền thanh cũng rất phổ biến và cũng có
tiếng nói của nhóm người Việt cao niên hoặc các chương trình dành riêng cho họ.
Với nhiều vị
cao niên, báo chí, truyền thanh là người bạn cần thiết cho cuộc sống mỗi ngày,
khi con cháu đi làm, đi học và họ ở nhà một mình.
Người Việt
cao niên có những sinh hoạt chung với nhau. Có những Trung tâm Người Già, nơi
đó họ tới hàng ngày gặp gỡ, tỏ bầy tâm sự, bàn chuyện quốc gia, thế giới, ôn
lại chuyện xưa. Họ cũng có những giải trí chung như đánh bài, đọc sách, chơi
thể thao. Tới các trung tâm này, ta sẽ có cơ hội trực tiếp nói chuyện với người
cao tuổi, sinh hoạt với họ thu lượm được nhiều dữ kiện về cuộc đời của các vị
cao niên.
Một số người
cao tuổi Việt cũng tham gia vào các sinh hoạt của dân bản xứ như Council On
Aging, các phân bộ của American Association of Retired Peoples, Senior Citizen
Center, Day Care program có sẵn tại địa phương.
VIII- Các vấn đề tìm thấy.
Cộng đồng
người Mỹ gốc Việt tại Hoa Kỳ đã thành công nhiều mặt trong việc định cư tại xứ
sở mới này. Sự hiện diện của họ đã tạo ra nhiều ấn tượng tốt trong các cộng
đồng bản xứ. Chúng ta đã đóng góp rất nhiều vào sự phồn thịnh cho nước Mỹ và
làm phong phú hơn nền văn hóa đa dạng nơi đây với các phong tục tập quán tốt
của ta.
Trong cộng
đồng, con số người Việt cao tuổi tuy khiêm nhường so với sắc dân bản xứ, nhưng
sự hiện diện của họ là một thực thể, những khó khăn thích nghi với một xã hội
mới là điều có thực. Khó khăn đến từ nhiều lãnh vực:
1-Về tuổi
tác với sức khỏe yếu kém.
Tới nước Mỹ
vào đợt đầu hoặc các đợt kế tiếp, hiện nay người chủ gia đình hầu như đều vào
tuổi ngoài 60. Một số đông người cao tuồi Việt Nam đề có sức khỏe từ kém tới
trung bình vì những lý do như:
a-Hầu hết đã
trải qua trên phần tư thế kỷ sống trong và liên hệ trực tiếp tới cuộc chiến tàn
hại tại Việt Nam;
b- Một số đáng kể trải qua nhiều năm trong các
Trại Tù Cải Tạo, bị hành hạ, dầy vò thân xác, tâm hồn cộng thêm nhiều năm sống
trong sự bạc đãi, kỳ thị và áp chế của chế độ độc tài Cộng sản;
c-Hầu hết
phải vật lộn với cuộc sống mới ở đất Mỹ, bắt đầu từ con số không;
d- Họ mang
một số bệnh kinh niên, tâm thần cũng như thể xác:
Bệnh thể xác.- Nói chung thì người cao niên
Việt Nam mắc các bệnh cao huyết áp,tiểu đường, phong khớp, mập phì…nhiều hơn
so với khi còn ở trong nước.
Tâm bệnh-
Con số người già Việt Nam tại Hoa Kỳ bị bệnh tâm thần cũng khá cao mà vấn đề
chính là trầm cảm hoặc Khổn lực do chấn động. Nguyên nhân nói chung là những
mất mát quê hương, tài sản, nghề nghiệp, thân nhân, bạn bè; những khó khăn
thích nghi trong nếp sống mới; những bực bội vì gia phong đảo ngược….
Bệnh ít được
phát hiện vì người Việt vốn kín đáo, dè dặt không muốn nói ra khó khăn của
mình, không quen với khoa tâm thần cũng như ít tin tưởng ở phương thức cố vấn,
điều trị.
Một vấn đề
đặc biệt là sa sút trí nhớ, kém khả năng học hỏi ở một số cựu tù nhân cải tạo.
Họ đã chịu cả chục năm bị hành hạ về tinh thần, bị tra tấn về thể xác, bị bỏ
sống trong đói lạnh, thiếu vệ sinh, thiếu chăm sóc y tế, lại bị bóc lột lao
động quá sức. Khi được thả về thì bị chính quyền Cộng sản theo dõi, kỳ thị,
trình diện liên tục, không kiếm được việc làm; con cái có lý lịch ngụy quân
ngụy quyền không được học…Tâm thần họ bị hoang loạn, trí não suy nhược. Khi
được nhập cảnh Hoa Kỳ, họ rất khó khăn hội nhập, không học được Anh ngữ. Một số
sống phụ thuộc vào chương trình an sinh xã hội hoặc con cái, nhưng đa số
đều cố gắng đi làm. Hiện nay có nhiều ngàn
người gặp khó khăn thi vào quốc tịch Hoa Kỳ vì kém Anh văn.
2- Buồn
phiền vì thay đổi nền nếp gia phong.
Hầu hết người cao tuổi Việt Nam đều đã
được nhào nặn trong quan niệm Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa cổ xưa. Nhiều người
không chịu được cảnh phóng túng tự do của con cái trong xã hội coi cá nhân là
trọng, giảm quyền uy cha mẹ. Một số kém may mắn không chấp nhận việc người bạn
đường coi thường tấm thân về già sau nhiều thập niên chăn gối. Họ cũng lo ngại
văn hóa ngôn ngữ người Việt sẽ mất đi trong nền văn hóa đa dạng của nước Mỹ.
Nhiều người đang tập họp với nhau để bảo tồn văn hóa dân tộc, nhưng một số cũng
rơi vào trầm cảm, buồn rầu, cô lập.
3- Khó khăn
do sự kỳ thị mầu da, chủng tộc-
Dù đã có nhiều tiến bộ trong lãnh vực
này, nhưng người Mỹ thiểu số, đặc biệt dân châu Á, vẫn chịu nhiều kỳ thị trong
mọi lãnh vực. Một người già Việt Nam không thể nào được hưởng đầy đủ sự chăm
sóc như người Mỹ da trắng ở bệnh viện, ở nhà dưỡng lão; khi cần sự bảo vệ của
giới chức an ninh thì phải đợi lâu hơn mới được phục vụ; dù là được coi như
thiểu số nhưng khi xin cho con cháu học chương trình đặc biệt thì bị xếp vào
nhóm Mỹ trắng với tiêu chuẩn cao hơn…
Và còn nhiều
thiệt thòi, phân biệt khác nữa chỉ vì họ không phải là dân da trắng hoặc ít
nhất cũng là da đen.
4- Khó khăn
hội nhập dòng chính-
Mặc dù đã
sống trên đất Mỹ quá một phần tư thế kỷ, nhưng một số khá đông người cao tuổi
Việt Nam vẫn chưa hoàn toàn hội nhập vào dòng chính; chưa tận dụng các quyền lợi mà người công dân Hoa Kỳ được
hưởng cũng như chưa chu toàn các bổn
phận khi vào quốc tịch. Do đó nhiều người cao niên chịu thiệt thòi cũng như
chưa đóng góp đúng mức. Một trong những lý do là trở ngại ngôn ngữ và thiếu
hướng dẫn. Ngoài ra, người mình vốn khiêm nhường, chịu đựng, chín bỏ làm mười,
nên không có những ra mặt đòi hỏi quyền lợi như
công dân Mỹ.
IX-Những đề nghị để giúp giải quyết khó khăn của người già Việt Nam tại Hoa
Kỳ.
Biết được
những khó khăn về y tế, xã hội của nhóm người cao tuổi Việt Nam tại Hoa Kỳ để
rồi hỗ trợ, giải quyết là điều cần làm. Cần làm vì quốc gia Hoa Kỳ đặt phúc lợi
của mọi người dân lên hàng đầu trong các chương trình an sinh xã hội. Người cao
tuổi Việt Nam đã đi làm, đã đóng góp để làm đất nước này giầu mạnh thì họ cũng
có quyền được giúp đỡ khi họ có khó khăn trong đời sống.
Đấy là những
điều mà ta cần phải làm ngõ hầu có thể giúp người cao tuổi Việt Nam tại Mỹ
thích nghi. Cho tới nay chưa có tìm hiểu sâu rộng nào về vấn đề này ở Mỹ, một
quốc gia mà mọi bất thường xẩy ra đều được phân tích và giải quyết.
Kết quả tìm
hiểu cũng như các đề nghị giải quyết này sẽ được gửi tới các cơ quan y tế, xã
hội Hoa Kỳ, hội American Association of Retired People.. để xin cứu xét, thực
hiện các chương trình trợ giúp cho khối người cao tuổi Mỹ gốc Việt Nam.
Sau đây là một số đề nghị:
1-Mở thêm
các lớp dậy Anh văn cho người cao tuổi Việt Nam.
2-Góp ý
với người cao tuổi Việt Nam tại Mỹ về
phong tục tập quán, quyền lợi cũng như bổn phận công dân Hoa Kỳ; giới thiệu các
chương trình an sinh xã hội, các tổ chức dành cho người già hiện đang có tại
quốc gia này.
3-Cần gia
tăng các trợ cấp của chính quyền liên bang và tiểu bang để có thêm trung tâm
cao niên Việt Nam, các chương trình ban ngày với phương tiện đưa đón, dịch vụ
sinh hoạt;
4-Cung cấp
thông dịch viên để giúp đỡ người già Việt Nam có khó khăn về Anh văn khi cần
tiếp xúc với cơ sở chính quyền, khi cần dịch vụ y tế, xã hội…
5-Giúp phát
triển truyền thông tiếng Việt để đáp ứng nhu cầu thông tin, học hỏi, giải trí
của người cao tuổi.
6-Giúp tổ
chức , hướng dẫn các sinh hoat cộng đồng để tăng sự cộng tác, xây dựng.
7-Giúp phương
tiện cho người cao tuổi tổ chức lớp dậy tiếng Việt, văn hóa Việt cho giới trẻ
Việt Nam cũng như phổ biến văn hóa mình trong cộng đồng bản xứ để phong phú hóa
nền văn hóa đa dạng Hiệp Chủng Quốc Mỹ.
8-Giúp
phương tiện để người cao tuổi Việt có thể thực hiện các nhà Văn Hóa Tuyền thống
Việt Nam tại mỗi địa phương có đông người Việt sinh sống để duy trì truyền
thống tốt của dân tộc.
9-Xử dụng
khả năng,kinh nghiệm chuyên môn của người cao tuổi bằng cách giới thiệu họ tới
các quốc gia đang phát triển để làm công việc thiện nguyện, với trợ cấp ăn ở,
di chuyển vừa phải.
10-Ngoài ra,
hiện nay có nhiều Hội người cao tuổi Việt Nam ở các thành phố có đông người
Việt sinh sống. Tuy nhiên nhiều hội đoàn chưa xử dụng được các trợ cấp do chính
quyền dành cho.
Chúng tôi đề
nghị một mô hình để các hội đoàn này tạo ra một liên hệ nhẹ nhàng với nhau ngõ
hầu tổ chức của người Việt cao niên tại Hoa kỳ hoạt động hữu hiệu cũng như tiếp
nhận nhiều hơn sự trợ giúp của chính quyền liên bang, tiểu bang và các tổ chức
tư nhân.
Sau đây là mô
hình đề nghị:
A-Đặt vấn đề.
1-Một số
người Già VN tại Mỹ đều sống cô đơn với khó khăn về ngôn ngữ và các nhu cầu đều
chưa được cung ứng thỏa đáng.
2-Hiện nay
có rất ít hội NCT được tồ chức chu đáo, quy củ.
B-Tài nguyên hiện có
1-Các hội NCT
hiện có.
2-Khoảng
400,000 NCT với:
-nhiều thì
giờ rảnh rang
-có kiến
thức cao
-có nhiều
kinh nghiệm
-có liên hệ
tốt với cộng đồng
-có truyền
thống gia đình tốt đẹp
3-Có sẵn
truyền thông tiếng Việt
4-Nhờ sự
tiếp tay của các tổ chức phi chính phủ
5-Có nhiều
sinh viên, học sinh và chuyên viên VN 1-Nhận
diện các hội cao niên hiện có.
C-Hành động
1-Nhận diện
các Hội Cao Niên hiện có
2-Tìm hiểu
các vùng có NCT
3-Tìm ra các
nhu cầu và tài nguyên
4-Thành lập
nhóm chuyên viên về vấn đề NCT
5-Thực hiện
và phát hành tài liệu về NCT qua truyền thông, phim ảnh
6-Tổ chức
ngày họp mặt đầu tiên của các hội cao niên
7-Nêu ra các
vấn đề thảo luận và nghị trình đại hội
8-Lập các
nhóm hoạt động và mời cố vấn đoàn
9-Thiết lập
một mạng luới điện tử để liên lạc
10-Hướng dẫn
huấn luyện các vị lãnh đạo Hội Cao Niên về kỹ thuật tổ chức, điều hành
11-Hướng dẫn
các hội viên trong việc thiết lập dịch vụ căn bản
12-Mướn một
chuyên viên thông thạo để phát triển các chương trình cao niên
13-Lập một
bản điều hành cho Hội cao niên
D-Kết quả
1-Sẽ có
các dữ kiện về các hội cao niên địa phương
2-Sẽ phát
hành bản tin nội bộ giữa các hội cao niên
3-Hội cao
niên địa phương sẽ nhận được tin tức qua truyền thanh, báo chí
4-Một Đại
hội đầu tiên sẽ được tổ chức vào mùa Hè năm 2004
5-Sẽ có dữ
kiện về các vấn đề quan trọng liên can tới người cao tuổi
6-Có một
chương trình hoạt động chung cho các hội cao niên địa phương
7-Phổ biến
rộng rãi tin tức về NCT qua báo chí, truyền thanh
E-Chỉ tiêu đạt được vào cuối năm 2004
1)Các vị cao
niên khắp 50 tiểu bang tại Mỹ sẽ hiểu biết được các quyền lợi về y tế, xã hội,
các vấn đề pháp lý cũng như các tiện ích công cộng dành cho họ. Họ cũng hiểu rõ
khả năng và vai trò lãnh đạo của họ
2) Tạo ra ít
nhất một Hội cao niên kiểu mẫu
3)Một văn phòng liên lạc được thiết lập để các
hội địa phương trao đổi tin tức, tương trợ
4)Các vị cao
niên sẽ giữ vai trò tích cực trong cộng đồng về các vấn đề giáo dục, hướng dẫn
giới trẻ, cổ võ bầu cử, ứng cử, phổ biến tin tức vế y tế, ỉ xã hội
5) Các vị
lãnh đạo hội cao niên sẽ có nhiều kinh nghiệm về tổ chức, điều hành hội
6) Các
chương trình của Hoa Kỳ sẽ bao gồm các nhu cầu của người già Việt Nam
7) Cộng đồng
người Việt sẽ hiểu rõ các nhu cầu, khả năng, vai trò cũng như các sinh hoạt của
người cao tuổi Việt Nam tại Hoa Kỳ. Các
hội cao niên Việt Nam sẽ được tổ chức quy củ hơn, sẽ có nhiều sức mạnh hơn và
sẵn sàng đại diện cho lớp người già, nói lên nhu cầu của mình và đóng góp nhiều
cho xã hội. Nhu cầu của họ sẽ được đáp ứng đầy đủ.
F-Mục đích
Các hội cao niên ở Mỹ sẽ được tổ chức quy củ
hơn, sẽ có nhiều sức mạnh hơn và sẵn sàng đại diện cho lớp người già, nói lên
nhu cầu của mình và đóng góp nhiều cho xã hội. Nhu cầu của họ sẽ được đáp ứng
đầy đủ.
X- Kết luận
Người cao
tuổi Mỹ gốc Việt Nam không phải chôn rau cắt rốn ở đất nước này, nhưng họ đã là
công dân Hoa Kỳ, đã đi làm, đã đóng thuế, đã thi hành hầu hết những bổn phận
như các công dân khác trên nước Mỹ. Họ cần được giúp đỡ để:
Làm sao giải
quyết được những Hội Chứng Trầm Cảm vì Khổn Lực, gây ra do hậu quả thảm khốc
của chiến tranh, đầy đọa của những năm cải tạo tập trung, kiệt sức của vật lộn
với nếp sống mới?
Làm sao giúp
cho gia đình , vợ chồng, con cái sống trong hòa thuận, trong lễ nghi nhưng
không quá khắt khe đồng thời duy trì văn hóa tốt của dân tộc.
Làm sao để
những Trăm Con Cùng Mẹ, trong cũng như ngoài nước, đùm bọc lấy nhau. Trong bối
cảnh của khuynh hướng toàn cầu hóa về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, người cao tuổi trong
nước cũng có những khắc khoải, ưu tư, khó khăn như đồng tuế ở nước ngoài. Họ
cũng là nạn nhân của chiến tranh, của nghèo khổ, của độc tài mất tự do, của
thay đổi suy nghĩ, nếp sống. Giúp giải quyết một phần những vấn đề của họ cũng
là giúp cho người cao tuổi Việt ở Hoa Kỳ yên tâm hơn, và người trách nhiệm bản
xứ cũng nhẹ bớt phần mặc cảm là đã đi vào một cuộc chiến mà kết thúc không được
vẻ vang.
Các đề nghị,
ý kiến có hoài bão giúp người tỵ nạn cao tuổi Mỹ gốc Việt Nam có thể kéo dài
cuộc sống vào giai đoạn mùa Đông cuộc đời một cách an bình. Đồng thời cũng hy
vọng tạo cho họ có một chỗ đứng tốt trong cộng đồng Việt Nam cũng như dòng
chính Hoa Kỳ.
Và một ngày
nào đó, trong bất hạnh xa quê, tên tuổi của họ sẽ được ghi lên những mộ bia nằm
rải rác trên mảnh đất đã cưu mang họ, khắp năm mươi tiểu bang lớn nhỏ của Hiệp
Chủng Quốc Hoa Kỳ./.
**********
Chú thích.
Trên đây là nội dung chính thức bản kết quả “Tìm hiểu
về Người Cao Niên Việt Nam tại Hoa Kỳ”,
được tác giả Nguyễn Ý-Đức thực hiện. Mong rằng sẽ có nhiều tìm hiểu đầy đủ hơn
về vấn đề này.
Arlington ngày 20-11-2003
BS
Nguyễn Ý-Đức