Vài nét về BS Ý Đức

- Tiến sỹ Y Khoa Quốc Gia

- Tuổi Ất Hợi

- Cựu học sinh Chu Văn An Hà Nội

- Tốt nghiệp Đại Học Y Dược Khoa Sài Gòn

- Hành nghề liên tục tại Việt Nam-Hoa Kỳ gần 40 năm.

- Biên khảo các vấn đề Y tế, Dinh Dưỡng Xã hội, Lao động

- Tác phẩm: Thuốc Mỹ Chữa Bệnh Ta, An Hưởng Tuổi Vàng, Sức Khỏe và Đời Sống, Người Cao Tuổi Việt Nam trên Đất Mỹ, Dinh Dưỡng và An Toàn Thực Phẩm, Bệnh Người Cao tuổi, Câu Chuyện Thầy Lang.

- Cộng tác với nhiều nhật báo, tập san, truyền thanh (RFI, RFA, VOA, Vietnam Hải ngoại, VAB, Dallas Radio, Lạc Việt Radio-Canada),  Đài truyền hình O2TV, VAN-TV55.2 , các website trong và ngoài Việt Nam trong các tiết mục y tế xã hội, lao động, dinh dưỡng.

- Tham gia chính chương trình Vấn Đáp Sống Khỏe của Hội Con Rồng Cháu Tiên VN Canada và YKHOANET thực hiện.

Bảo vệ em bé

Bảo Vệ Em Bé

D

ân chúng  tại các quốc gia đang phát triển hầu hết đều tự cho là tất cả trẻ em sanh ra đã mang một trường hợp nhẹ bệnh Sởi  và Quai Bị.Tuy nhiên tại một vùng ở Châu Phi, có ít nhất 5% bị bệnh sởi đều chết. Khi mới xuất hiện, bệnh có thể gây tử vong cho rất nhiều trẻ em. Ở vùng hẻo lánh Faroe Island, North Atlantic, có tới ¾ dân chúng bị bệnh trong vòng sáu tháng đầu vào năm 1846 và  số tử vong rất cao; 29 năm sau đó, tại đảo Pacific Fiji, số tử vong lên cao tới 20%. Trong Thế chiến thứ nhất,  số binh sĩ bị vô sinh và tổn thương não bộ  do bệnh Quai bị lên rất cao.

Vào Đệ Nhị Thế Chiến , một người xuất chúng đã nghiên cứu về các loại vaccin. Đó là John Franklin Enders . Ông này không quyết định trở thành một nhà vi trùng học  cho tới khi tốt nghiệp về  văn chương tại Harvard University.Cuối cùng thì ông  ta cũng leo lên tới chức Giáo sư phụ về Vi trùng học tại đại học này. Cùng với hai sinh viên của mình, họ đã làm một việc rất quan trọng trong lịch sử y khoa.

Khi Hoa Kỳ tham gia vào cuộc Đại Chiến Thứ Nhất thì Enders gia nhập  ban nghiên cứu về bệnh sởi và bệnh đậu mùa khi đó đang hoành hành trong nhóm tân binh. Với sự trợ giúp của Joseph Stokes Jr, ông ta tách biệt virus của bệnh quai bị rồi cấy vào giống khỉ và tìm cách tạo ra phương thức định bệnh ngoài da. Rồi họ  bào chế một loại thuốc chủng gồm các siêu vi đã vô hiệu hóa để binh sĩ dễ mắc bệnh dùng. Bất hạnh thay là loại này chỉ gây ra một bảo vệ ngắn hạn. Một số thuốc chủng ngừa bệnh đậu mùa cũng được chế tạo nhưng đều gây ra tác dụng phụ rất trầm trọng.  

Gamma Globulin

Khi chưa có vaccin, dân chúng đều mang nhiều rủi ro có thể được tạm thời bảo vệ với gamma globulin.Đây là máu của những người đã có một bệnh đặc biệt chứa những kháng thể chống lại bệnh đó.  Nhắc lại kháng thể là các phân tử immunoglobulin do các tế bào lympho B cũng như các tương bào tiết ra để hệ miễn dịch nhận biết và vô hiệu hóa các tác nhân lạ, chẳng hạn các vi khuẩn hoặc virus. Mỗi kháng thể chỉ có thể nhận diện một epitopekháng nguyên duy nhất. Còn kháng nguyên là một yếu tố dịch thể được tạo ra  trong máu người sau khi cơ thể tiếp xúc với kháng nguyên, có tác dụng chống lại kháng nguyên, làm mất khả năng gây bệnh của chúng. Do vậy cơ thể nào có khả năng tạo ra kháng thể càng mạnh thì khả năng miễn dịch chống lại các bệnh nhiễm khuẩn càng cao.Vào năm 1944, khoa học gia người Hoa Kỳ là Edwin J. Coln làm việc tai Đại hoc Harvard đã nghĩ ra phương pháp tách biệt gamma globulin khỏi huyết thanh. Chất này đã thành công cứu sống một số lớn bệnh nhân mắc bệnh sởi lần đầu ở miền nam Greenland vào năm 1951. Hồ sơ ghi lại cho thấy có tới 99.9 o/o dân chúng ở mọi lứa tuổi mắc bệnh và 1.8 o/o chết. Đó là nhờ họ đã được  chích ngừa với gamma globulinvà penicillin đã được dùng để phòng ngừa biến chứng.

Gamma globulinđôi khi  cũng được dùng để điều trị những ai có rủi do mắc các bệnh như viêm gan , tê liệt trẻ em và phong đòn gánh.Các bà mẹ có máu Rh-âm sau khi sanh mà con lại Rh-dương cũng được dùng gamma globulin để phòng tránh tác dụng bất lợi.

 

Vaccin ngừa bệnh sởi.

Bệnh sởi là một bệnh  rất dễ lây lan và lây lan rất nhanh. Bệnh có thể chuyển thành dịch như sau:

Lây qua đường hô hấp: tiếp xúc với dịch tiết, dịch mũi, hầu, họng, nước bọt. Đặc biệt trong giai đoạn đầu, khi bệnh nhân có dấu hiệu cảm, ho, sốt, dịch tiết nhiều và cũng là gia đoạn người bệnh dễ lây truyền cho cộng đồng nhất.

Lây qua vật trung gian: tiếp xúc dịch khi dùng chung khăn rửa, bàn chải, điện thoại, tay cầm cửa… có chứa dịch của người bệnh sởi.

Những ai đã từng bị sởi hoạc đã tiêm vaccin phòng sởi thông thường sẽ có miễn dịch suốt đời và không bị lây nhiễm từ người bệnh sởi, tuy nhiên đối với nhũng trường hợp chưa có kháng thể virus sởi trong máu thì tỉ lệ lây nhiễm sẽ rất cao, tới hơn 90%.

Trẻ nhỏ sau khi sinh khoảng 6 tháng đầu, trong máu có thể có kháng thể từ cơ thể mẹ, sau 6 tháng kháng thể sinh ra không đủ vì vậy lứa tuổi của trẻ nhỏ lớn hơn 6 tháng tuổi dễ bị mác sởi nến chưa được tiêm phòng.

Vào năm 1946, bộ ba khoa học gia Enders, Weller và Robbins  tại Children Hospital Boston đã bắt đầu cấy virus vào mô bào đồng vật. Đến tháng Ba năm 1948, Weller nuôi virus trong nước thịt gà. Rồi tới năm 1949, bộ ba khoa học gia này lại nuôi virus bệnh tê liệt trẻ em vào tế bào con người.

Khoa học gia Enders đã cùng đồng nghiệp chuyển nghiên cứu trở lại việc loại bỏ tác dụng phụ của vaccin ngừa bệnh sởi. Đến năm 1954, Enders lấy mẫu chất tiết ở cuống họng và máu của một cậu bé ở Boston đang bị bệnh sởi rồi cấy vào tế bào con người để lấy virus bệnh. Đây là lần đầu tiên virus được tách riêng.

Trong ba năm trời dòng dã và với sự tiếp tay của khoa học gia người Nam Tư Milan Milatovic, họ đã tiêm virus vào khỉ, chim và chuột cho tới khi chúng không gây bệnh ở loài khỉ nhưng lại tạo ra kháng thể.Tới năm 1960, vaccin với virus còn sống để ngừa bệnh sởi đều sẵn sàng để thử nghiệm và được cấp bằng bản quyền vào năm 1963. Tới năm 1974, vaccine này đã cứu sống 2400 sinh mạng riêng tại Hoa Kỳ.


 

 

Bênh Quai Bị. 

Bệnh quai bị (còn được gọi là bệnh viêm tuyến mang tai do virus quai bị) một bệnh truyền nhiễm cấp tính, lây trực tiếp bằng đường hô hấp, hay gây thành dịch trong trẻ em, thanh thiếu niên do virus quai bị gây nên.

Lupus ban đỏ hệ thống, hay còn được gọi tắt  lupus (SLE- Systemic Lupus Erythematosus),  một bệnh tự miễn trong đó hệ thống miễn dich của con người tấn công chính những cơ quan và các tế bào của cơ thể, làm chúng bị tổn thương và rối loạn.

Trong nhiều thế kỷ, bệnh ban đỏ rubella đã được coi như bệnh sởi nhẹ.Rồi tới các năm 1940/1941 có một dịch bệnh tại Úc Đại Lợi. Đến năm 1941, bác sĩ nhãn khoa Norman McAlister Gregg cho biết có gần 100 trẻ sơ sinh bị bệnh đục thủy tinh thể lúc bà mẹ bị bệnh ban đỏ trong khi có thai.Đa số các trẻ sơ sinh này còn bị điếc, bệnh tim và chậm trí.Tiết lộ của Norman bị bỏ qua nhưng đã tạo ra sự chú ý sau thế chiến thứ nhất.

Khoa  học gia người Úc Đại Lợi Frank Macfarlane Burnet cho hay là chích gamma globulin có thể bảo vệ các bà mẹ có thai khi tiếp xúc với ban đỏ.Thế là truyền thông báo chí rầm rộ cổ võ cho các buổi tiệc tùng để hỗ trợ cho các thiếu nữ với hy vọng rằng trẻ sơ sinh bị bệnh sẽ truyền virus bệnh ban đỏ cho bạn đường của mình và cả hai đều được bảo vệ.

Rồi mọi sự đều lắng đọng cho tới trận dịch bệnh ban đỏ vào các năm 1963/1964 tại Hoa Kỳ. Đây là dịch bệnh lớn nhất trong lịch sử loài người. Ít nhất có tới 20,000 thai nhi bị tổn thương não bộ và chi phí điều trị cho chúng quá lớn khiến cho Quốc hội Hoa Kỳ phải ban hành một đạo luật bắt buộc việc chích ngừa cho trẻ em ngay sau khi sanh. Cuối cùng thì bộ ba khoa học gia Paul Parkman, Theodore C. Panos và Harry Meyers Jr làm ra vaccin bệnh ban đỏ với virus còn sống.

                                                                                                Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

 

 

Comments are closed