Bảo Vệ Em Bé
ân chúng tại các quốc gia đang phát triển hầu hết đều tự
cho là tất cả trẻ em sanh ra đã mang một trường hợp nhẹ bệnh Sởi và Quai Bị.Tuy nhiên tại một vùng ở Châu Phi,
có ít nhất 5% bị bệnh sởi đều chết. Khi mới xuất hiện, bệnh có thể gây tử vong
cho rất nhiều trẻ em. Ở vùng hẻo lánh Faroe Island, North Atlantic, có tới ¾
dân chúng bị bệnh trong vòng sáu tháng đầu vào năm 1846 và số tử vong rất cao; 29 năm sau đó, tại đảo
Pacific Fiji, số tử vong lên cao tới 20%. Trong Thế chiến thứ nhất, số binh sĩ bị vô sinh và tổn thương não bộ do bệnh Quai bị lên rất cao.
Vào
Đệ Nhị Thế Chiến , một người xuất chúng đã nghiên cứu về các loại vaccin. Đó là
John Franklin Enders . Ông này không
quyết định trở thành một nhà vi trùng học
cho tới khi tốt nghiệp về văn chương
tại Harvard University.Cuối cùng thì ông ta cũng leo lên tới chức Giáo sư phụ về Vi
trùng học tại đại học này. Cùng với hai sinh viên của mình, họ đã làm một việc rất
quan trọng trong lịch sử y khoa.
Khi
Hoa Kỳ tham gia vào cuộc Đại Chiến Thứ Nhất thì Enders gia nhập ban nghiên cứu về bệnh sởi và bệnh đậu mùa
khi đó đang hoành hành trong nhóm tân binh. Với sự trợ giúp của Joseph Stokes
Jr, ông ta tách biệt virus của bệnh quai bị rồi cấy vào giống khỉ và tìm cách tạo
ra phương thức định bệnh ngoài da. Rồi họ
bào chế một loại thuốc chủng gồm các siêu vi đã vô hiệu hóa để binh sĩ dễ
mắc bệnh dùng. Bất hạnh thay là loại này chỉ gây ra một bảo vệ ngắn hạn. Một số
thuốc chủng ngừa bệnh đậu mùa cũng được chế tạo nhưng đều gây ra tác dụng phụ rất
trầm trọng.
Gamma Globulin
Khi
chưa có vaccin, dân chúng đều mang nhiều rủi ro có thể được tạm thời bảo vệ với
gamma globulin.Đây là máu của những người đã có một bệnh đặc biệt chứa những
kháng thể chống lại bệnh đó. Nhắc lại kháng thể là các phân tử immunoglobulin do các tế bào
lympho B cũng như các tương bào tiết ra để hệ miễn dịch nhận biết và vô hiệu
hóa các tác nhân lạ, chẳng hạn các vi khuẩn hoặc virus. Mỗi kháng thể chỉ có thể nhận diện một epitopekháng nguyên duy nhất. Còn kháng nguyên là một yếu tố dịch thể được tạo ra trong máu người sau khi cơ thể tiếp xúc với
kháng nguyên, có tác dụng chống lại kháng nguyên, làm mất khả năng gây bệnh của
chúng. Do vậy cơ thể nào có khả năng tạo ra kháng thể càng mạnh thì khả năng miễn
dịch chống lại các bệnh nhiễm khuẩn càng cao.Vào năm 1944, khoa học gia
người Hoa Kỳ là Edwin J. Coln làm việc tai Đại hoc Harvard đã nghĩ ra phương
pháp tách biệt gamma globulin khỏi huyết thanh. Chất này đã thành công cứu sống
một số lớn bệnh nhân mắc bệnh sởi lần đầu ở miền nam Greenland vào năm 1951. Hồ
sơ ghi lại cho thấy có tới 99.9 o/o dân chúng ở mọi lứa tuổi mắc bệnh và 1.8
o/o chết. Đó là nhờ họ đã được chích ngừa
với gamma globulinvà penicillin đã được dùng để phòng ngừa biến chứng.
Gamma
globulinđôi khi cũng được dùng để điều
trị những ai có rủi do mắc các bệnh như viêm gan , tê liệt trẻ em và phong đòn
gánh.Các bà mẹ có máu Rh-âm sau khi sanh mà con lại Rh-dương cũng được dùng
gamma globulin để phòng tránh tác dụng bất lợi.
Vaccin ngừa bệnh sởi.
Bệnh sởi là một bệnh
rất dễ lây lan và lây lan rất nhanh. Bệnh có thể chuyển thành dịch như
sau:
Lây qua đường hô hấp: tiếp xúc với dịch tiết, dịch mũi,
hầu, họng, nước bọt. Đặc biệt trong giai đoạn đầu, khi bệnh nhân có dấu hiệu
cảm, ho, sốt, dịch tiết nhiều và cũng là gia đoạn người bệnh dễ lây truyền cho
cộng đồng nhất.
Lây qua vật trung gian: tiếp xúc dịch khi dùng chung khăn
rửa, bàn chải, điện thoại, tay cầm cửa… có chứa dịch của người bệnh sởi.
Những ai đã từng bị sởi hoạc đã tiêm vaccin phòng sởi thông
thường sẽ có miễn dịch suốt đời và không bị lây nhiễm từ người bệnh sởi, tuy
nhiên đối với nhũng trường hợp chưa có kháng thể virus sởi trong máu thì tỉ lệ
lây nhiễm sẽ rất cao, tới hơn 90%.
Trẻ nhỏ sau khi sinh khoảng 6 tháng đầu, trong máu có thể có
kháng thể từ cơ thể mẹ, sau 6 tháng kháng thể sinh ra không đủ vì vậy lứa tuổi
của trẻ nhỏ lớn hơn 6 tháng tuổi dễ bị mác sởi nến chưa được tiêm phòng.
Vào
năm 1946, bộ ba khoa học gia Enders, Weller và Robbins tại Children Hospital Boston đã bắt đầu cấy
virus vào mô bào đồng vật. Đến tháng Ba năm 1948, Weller nuôi virus trong nước
thịt gà. Rồi tới năm 1949, bộ ba khoa học gia này lại nuôi virus bệnh tê liệt
trẻ em vào tế bào con người.
Khoa
học gia Enders đã cùng đồng nghiệp chuyển nghiên cứu trở lại việc loại bỏ tác dụng
phụ của vaccin ngừa bệnh sởi. Đến năm 1954, Enders lấy mẫu chất tiết ở cuống họng
và máu của một cậu bé ở Boston đang bị bệnh sởi rồi cấy vào tế bào con người để
lấy virus bệnh. Đây là lần đầu tiên virus được tách riêng.
Trong
ba năm trời dòng dã và với sự tiếp tay của khoa học gia người Nam Tư Milan
Milatovic, họ đã tiêm virus vào khỉ, chim và chuột cho tới khi chúng không gây
bệnh ở loài khỉ nhưng lại tạo ra kháng thể.Tới năm 1960, vaccin với virus còn sống
để ngừa bệnh sởi đều sẵn sàng để thử nghiệm và được cấp bằng bản quyền vào năm
1963. Tới năm 1974, vaccine này đã cứu sống 2400 sinh mạng riêng tại Hoa Kỳ.
Bênh
Quai Bị.
Bệnh quai bị (còn được gọi là
bệnh viêm tuyến mang tai do
virus quai bị) là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, lây trực tiếp bằng
đường hô hấp, hay gây thành dịch trong trẻ em, thanh thiếu niên do virus quai bị gây nên.
Lupus ban đỏ hệ thống, hay còn được gọi tắt là lupus (SLE- Systemic Lupus
Erythematosus), là một bệnh tự miễn trong đó hệ thống miễn dich của
con người tấn công chính những cơ quan và các tế bào của cơ thể, làm chúng bị tổn
thương và rối loạn.
Trong nhiều thế kỷ, bệnh ban đỏ
rubella đã được coi như bệnh sởi nhẹ.Rồi tới các năm 1940/1941 có một dịch bệnh
tại Úc Đại Lợi. Đến năm 1941, bác sĩ nhãn khoa Norman McAlister Gregg cho biết
có gần 100 trẻ sơ sinh bị bệnh đục thủy tinh thể lúc bà mẹ bị bệnh ban đỏ trong
khi có thai.Đa số các trẻ sơ sinh này còn bị điếc, bệnh tim và chậm trí.Tiết lộ
của Norman bị bỏ qua nhưng đã tạo ra sự chú ý sau thế chiến thứ nhất.
Khoa
học gia người Úc Đại Lợi Frank
Macfarlane Burnet cho hay là chích gamma globulin có thể bảo vệ các bà mẹ có
thai khi tiếp xúc với ban đỏ.Thế là truyền thông báo chí rầm rộ cổ võ cho các
buổi tiệc tùng để hỗ trợ cho các thiếu nữ với hy vọng rằng trẻ sơ sinh bị bệnh
sẽ truyền virus bệnh ban đỏ cho bạn đường của mình và cả hai đều được bảo vệ.
Rồi
mọi sự đều lắng đọng cho tới trận dịch bệnh ban đỏ vào các năm 1963/1964 tại
Hoa Kỳ. Đây là dịch bệnh lớn nhất trong lịch sử loài người. Ít nhất có tới
20,000 thai nhi bị tổn thương não bộ và chi phí điều trị cho chúng quá lớn khiến
cho Quốc hội Hoa Kỳ phải ban hành một đạo luật bắt buộc việc chích ngừa cho trẻ
em ngay sau khi sanh. Cuối cùng thì bộ ba khoa học gia Paul Parkman, Theodore
C. Panos và Harry Meyers Jr làm ra vaccin bệnh ban đỏ với virus còn sống.
Bác
sĩ Nguyễn Ý Đức