Bệnh
Parkinson.
Năm 1817, James Parkinson, một bác sĩ gia đình ở vùng
East End của Luân Đôn đã viết một chuyên khảo về Essay on the Shaking Palsy. Bài
viết này đã thành một tài liệu cổ điển về y học: các diễn tả về những triệu chứng
cũng như diễn tiến của bệnh đã có từ thời xưa chỉ cần thêm bớt chút đỉnh và do
đó bệnh được mang tên ông. Trước khi được Parkinson tả lại, bất cứ một loại rối
loạn về cơ bắp hoặc liệt đều được cho là liệt não. Liệt não bao gồm tất cả các
loại rung vì tuổi già, bệnh thần kinh và nghiện rượu.
Bệnh Parkinson gồm có ba triệu chứng: rung ở một hoặc
nhiều chân hoặc tay, cứng của bắp thịt và sự chậm chạp cũng như khó khăn khi bắt
đầu cử động.Triệu chứng của bệnh thay đổi tùy theo từng người nhưng ở cùng một
người, một triệu chứng thường lấn áp các triệu chứng khác. Rung thường thấy ở một
hoặc nhiều tứ chi cùng một phía của cơ thể. Các triệu chứng này rõ hơn nếu bệnh
nhân nghỉ và đặc biệt là khi cảm thấy rất mệt và bẳn tính. Rung này hết khi ngủ
và giảm bớt hoặc biến mất khi tứ chi được
dùng tới.
Rung khi nghỉ trở thành liệt rung trước khi được kêu
là bệnh Parkinson. Trong diễn tả của ông, ông nói rõ rung là một triệu chứng của
một bệnh chứ không phải là một bệnh. Rung không phải do sự tê liệt hoặc suy yếu
nhưng ngược lại khi ta cử động quá chậm. Đôi khi rung lại quá trầm trọng đến nỗi
không những rung cả giường mà cả sàn nhà
hoặc cả căn phòng nữa.
Cách
điều trị.
Bệnh Parkinson phát triển khi một nhóm nhỏ tế bào thần
kinh không hoạt động được bình thường. Vị trí của các tế bào này chỉ được biết
vào năm 1950, khi một chất mầu xám nằm trong não giữa bị bệnh. Sau khi xác định
được chất dẫn truyền thần kinh mới là dopamine được tìm ra và có trong chất xám
này cùng các tế bào gốc của não, việc tìm cách điều trị bệnh Parkinson bắt đầu.
Cùng khi đó, khoa học cũng tìm ra tác dụng phụ của
các thuốc thần kinh mới, reserpine và nhóm các thuốc phenothiazine: thuốc này
có vẻ như gây ra các triệu chứng của bệnh Parkinson. Và vì thuốc này can thiệp
vào sự có mặt của dopamine tại đoạn cuối của dây thần kinh, người ta nghĩ rằng
có sự liên hệ giữa dopamine và bệnh Parkinson. Vì một lý do nào đó, các tế bào
trong chất xám người bệnh Parkinson không cung cấp đủ dopamine để gửi các tín
hiệu thần kinh tới não bộ và do đó có các cử động bất thường của cơ bắp.
Năm 1961, thí nghiệm dùng thử levodopa(L-dopa), một
hóa chất giúp cho cơ thể tạo ra dopamine bắt đầu ở Vienna và Montreal. Kết quả
cho hay L-dopa có thể tác dụng vào tế bào của não để sản xuất ra dopamine và nhờ
đó giảm đi nhiều triệu chứng đặc biệt là sự chậm và khó khăn khi mới bắt đầu cử
động.
Năm 1967, George Cotzias và các nhà khoa học khác dẫn
đầu trong việc giới thiệu cách điều trị bằng L-dopa.
Những
khám phá mới.
Bác sĩ Sacks cho một số bệnh nhân bị bệnh buồn ngủ tại
Mount Carmel Hospital, New York, và quan sát một cách thích thú khi thuốc làm họ
tỉnh lại. Nhiều bệnh nhân bình phục rất tốt: nói, đi và dần dần trở lại bình
thường. Nhưng lâu ngày bệnh nhân phải tăng liều L-dopa. Các tác dụng phụ như bất
chợt vô tình cử động tứ chi và nhăn mặt bắt đầu lấn át sự sung sướng của bệnh
nhân. Sau cùng tác dụng phụ lấn át các lợi điểm và người bệnh bị viêm não sẽ buồn
rầu mà trở lại tình trạng ngủ ban đầu.
Qua các thập niên 1970 và 1980, có rất nhiều cách
dùng L-dopa để chữa bệnh Parkinson. Ban
đầu dùng ít thôi và khi tác dụng phụ bắt đầu lộ diện, liều lượng được giảm đi
hoặc ngưng hẳn tùy theo đáp ứng của bệnh nhân. Trong nhiều trường hợp, L-dopa
được dùng chung với các dược phẩm khác như là selegiline vì thuốc này ngăn sự
phân hóa của dopamine.
Các
thử nghiệm với chuyển bộ phận.
Năm 1981, một phương pháp trị bệnh mới dùng nang thượng
thận của mình được khai triển tại Karolinska Institute, Stockhom. Nhiều bệnh
nhân được giải phẫu trong đó phần giữa của nang thượng thận, nơi chứa các tế
bào sản xuất ra dopamine được truyền vào các vùng não bị bệnh Parkinson. Điều
trị này có làm giảm sự cứng ngắc của các bắp thịt bệnh nhân nhưng hiệu quả rất
ngắn hạn và bệnh nhân trở lại với dược phẩm cũ là levodopa.
Một cách điều trị có vẻ hợp lý hơn nhưng cũng có nhiều
nghịch lý là truyền tế bào từ não của thai nhi vào vùng bị hư hao của bệnh nhân
bị Parkinson ở não cũng giảm một số triệu chứng bằng cách tăng dopamine. Tháng
ba năm 1988, Betty Knight là bệnh nhân đầu tiên nhận tế bào thai nhi ở khối
Liên Hiệp Anh do giáo sư Hitchkoch thực hiện tại Burmingham. Và năm 1990, bác
sĩ O. Lindval ở Thụy Điển đã cho hay điều trị thành công bệnh nhân bị Parkinson
nặng khi được ghép tế bào thai nhi .
Mặc dù có nhiều nghịch lý rõ ràng về cấy tế bào thai
nhi, không phải vì nhiều luật cấm phá thai ở các quốc gia, cuộc tìm kiếm vẫn diễn
ra ở Thụy Điển và Mễ Tây Cơ dưới rất nhiều kiểm soát. Nhưng cho tới nay vẫn
chưa có một sự thành công ló dạng của các giải phẫu này.
Hiện nay các nghiên cứu y học về bệnh Parkinson đều
tập trung vào việc tìm ra bệnh sớm và cấy các yếu tố di truyền. Đã có một số
ánh sáng rằng hóa chất như chất có hại cho thần kinh
methylphenyltetrahydropyridine có một vai trò nào đó trong triệu chứng của bệnh
giống như bệnh Parkinson. Các thí nghiệm trong giữa năm 1980 chứng tỏ rằng MPTP
đã phá hủy một số tế bào thần kinh ở vùng xám. Và vào giữa năm 1990, một số nhỏ
bạn trẻ ở Hoa Kỳ đã bị Parkinson sau khi dùng các chất gây nghiền như heroin đã
bị pha lẫn với MPTV.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức.