CHÂM CỨU VÀ
CÁC VẤN ĐỀ RẮC RỐI.
Vào cuối năm
1960, nước Cộng Hòa Nhân DânTrung Quốc lập bang giao với Hoa Kỳ sau hơn hai
mươi năm không nhìn mặt nhau. Số là sau một thời gian giá lạnh thì cuộc thăm viếng
của Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon vào năm 1972 đã làm thay đổi tình hình giữa
hai nước và trên thế giới. Điểm này đã tạo
ra những chú tâm của phía Tây phương tới tất cả những gì Trung Quốc làm kể cả các
kỹ thuật về Châm Cứu mà trong thời Chủ Tịch Mao có đến gần một triệu người đang hành nghề.
Những phái
đoàn tiếp sau cuộc viếng thăm của Tổng Thống Nixon cho hay các cuộc giải phẫu
và chữa bệnh với những kim làm bằng bạc, hoặc thép không rỉ của các châm cứu
gia đưa vào hơn ba trăm “huyệt” của bệnh nhân.Theo các vị này thì mũi kim có mục
đích đưa vào hoặc lấy ra khỏi cơ thể những cảm giác đau khiến con người dễ chịu
hơn.
Châm cứu và
kỹ thuật Nhật Bản dùng ngón tay thay vì với kim đã từ lâu xa lạ với y khoa và
dân chúng Tây phương. Nhưng kể từ nay châm cứu và các kỹ thuật chữa bệnh Đông
phương đều được nghiên cứu rộng rãi hơn.
Xem xét kỹ những điều đã nêu ra.
Những điều kỳ
lạ nhất do châm cứu nêu ra vào thập niên
1970 đều bị gạt bỏ hết. Chẳng hạn như những trường hợp nhiễm trùng nặng: gẫy
xương; ung thư; các bệnh tim; bệnh cử động thần kinh và teo thịt. Họ cũng thừa
nhận rằng một số bệnh nhân như các em còn nhỏ hoặc những người thật già hoặc
suy yếu đều không chữa bằng kim được nhưng có thể dùng sức ép của ngón tay hoặc
bằng những cách khác.
Tuy nhiên vẫn
có một danh sách thật dài về tâm lý hoặc thể chất mà những người ủng hộ châm cứu
nêu ra như lo sợ và trầm cảm hoặc đau khớp hoặc trĩ hậu môn. Vào năm 1973, cơ
quan Royal Society of Medicine ở Anh quốc công bố một danh sách gồm 642 trường
hợp chữa bằng châm cứu.Nghiên cứu này cho hay có 37 phần trăm bệnh nhân đều cho
là có kết quả tốt hoặc trung bình còn các trường hợp khác lại nói rằng châm cứu
chẳng giúp gì cả.
Tỷ lệ cao nhất
nói là chữa khỏi đều là thiên đầu thống, suyễn và đau bụng khi có kinh. Những
người nói là kết quả không ra gì gồm có đau bụng khi có kinh nguyệt, lở cuống
bao tử và ăn khó tiêu, các trường hợp tâm trí, liệt dương hoặc lạnh cảm. Chín phần mười những người bị đau bắp thịt, bốn
trên năm người bị sốt và ba trong bốn người bị viêm khớp xương đủ loại đều nói
là chỉ có vài công hiệu mà thôi.
Kết quả của các
nghiên cứu này hoặc tương tự chứng minh rất ít kết quả theo y học tây phương.
Tuy vậy, số các bác sĩ coi châm cứu là phụ cho y khoa chính thống ngày một gia
tăng, đến nỗi bên Mỹ năm 1980 có khoảng vài trăm bác sĩ và ở các nước Tây
phương có đến mấy ngàn người làm thêm châm cứu. Tại các nước như Ấn Độ, Tích
Lan và Nga Sô Viết s�� châm cứu gia đóng
vai trò quan trọng trong y học theo lối Tây phương .
Các nghiên cứu
Tây phương về châm cứu tập trung nhiều vào khả năng giảm đau và vào một số các
khả năng khác. Thí dụ kẹp vào rái tai để chữa ghiền chất nicotine và những loại
ghiền khác.
Châm cứu công hiệu như thế nào?
Người Trung
Hoa khi xưa tin tưởng châm cứu dựa trên nguyên tắc là năng lượng “khí” được
luân lưu khắp cơ thể, giữa các bộ phận sinh tử, dọc theo một số đường mà họ gọi
là “kinh”. Ở những điểm châm cứu, nơi mà đường kinh gần mặt da hơn cả , nhà
châm cứu khéo tay có thể duy trì hoặc tái lập đường kinh đi để lấy lại sự thăng
bằng. Nhưng cho đến ngày nay chưa có bằng chứng nào về đường “kinh” là có thật.
Theo các nhà
khoa học tây phương, châm cứu chỉ là một sự ru ngủ hoặc gợi ý và một số yếu tố
hình như đã chứng minh điều đó.Một phần ba các nhà châm cứu cũng thừa nhận điều
này là đúng. Hơn nữa sự thành công của châm cứu ở Trung Quốc cao hơn là ở các
quốc gia Tây phương là vì người Trung Quốc tin tưởng vào châm cứu.
Để chống lại
các luận cứ kể trên, những người ủng hộ châm cứu thường nói rằng môn chữa bệnh
này được dùng thành công ở súc vật. Họ cũng nói thêm rằng ở Trung Quốc, châm cứu
là một phần của dinh dưỡng, vận động cơ thể và các hoạt động khác, tất cả đều có
mục đích là làm thăng bằng sự âm và dương, là những điều không đúng đối với Tây
phương.
Một lý thuyết
đặc biệt kết nối giữa châm cứu với sự giảm đau đã xuất hiện giữa năm 1960, mấy
năm sau khi nổi lên phong trào ưa thích đến vấn đề này. Trong lý thuyết “gate
control” của các nhà nghiên cứu Ronald Melzack và Patrick Wall, kích thích bằng
châm cứu có thể chặn cảm giác đau nơi tủy sống. Nhưng lại không giải thích được
trường hợp đau lâu năm như trong bệnh viêm khớp kinh niên.
Ngoài ra,
quan sát kỹ các điểm châm cứu cho hay nhiều điểm nằm ở chỗ mà dây thần kinh ló
ra ngoài da hoặc một sợi dây thần kinh chạy vào bắp thịt đó. Cuối cùng , 71%
các điểm châm cứu tương ứng với các điểm gây bệnh trên da mà một số bệnh trở
nên mềm hơn là trong nhiều bệnh khác, chẳng hạn thấy đau ở vai vì đau ở gan.
Vào thập niên 1970, trong khi nghiên cứu về hệ
thần kinh trung ương, các khoa học gia đã đưa ra một giả thuyết về châm cứu. Họ
tìm thấy rằng các loại dược phẩm như morphine và heroin đã tác dụng lên các “điểm
nhận” của não bộ hoặc tủy sống. Họ lý luận rằng các điểm tiếp nhận sẽ không có
ngoại trừ cơ thể sản xuất ra các chất tương tự, giảm đau ở người bệnh và tăng
những cảm giác dễ chịu đối với người khỏe mạnh. Năm 1973, chất này gọi là
endorphins đã được các nhà khoa học phân tích.
Chất endorphins
được coi như có trách nhiệm về trì hoãn cơn đau ở những ai bị chấn thương nặng,
kể cả người bị đau vì thể thao. Một số tác giả gợi ý rằng châm cứu và những kỹ
thuật tương tự hoàn thành công dụng của mình bằng cách nhả ra chất endorphins
và các chất hóa học khác. Sự liên hệ có thể chưa chứng minh hết nhưng các
nghiên cứu vẫn tiếp tục bởi vì nó an toàn và không gây nghiền khi muốn bớt đau.
Bác sĩ Nguyễn
Ý Đức.