Vài nét về BS Ý Đức

- Tiến sỹ Y Khoa Quốc Gia

- Tuổi Ất Hợi

- Cựu học sinh Chu Văn An Hà Nội

- Tốt nghiệp Đại Học Y Dược Khoa Sài Gòn

- Hành nghề liên tục tại Việt Nam-Hoa Kỳ gần 40 năm.

- Biên khảo các vấn đề Y tế, Dinh Dưỡng Xã hội, Lao động

- Tác phẩm: Thuốc Mỹ Chữa Bệnh Ta, An Hưởng Tuổi Vàng, Sức Khỏe và Đời Sống, Người Cao Tuổi Việt Nam trên Đất Mỹ, Dinh Dưỡng và An Toàn Thực Phẩm, Bệnh Người Cao tuổi, Câu Chuyện Thầy Lang.

- Cộng tác với nhiều nhật báo, tập san, truyền thanh (RFI, RFA, VOA, Vietnam Hải ngoại, VAB, Dallas Radio, Lạc Việt Radio-Canada),  Đài truyền hình O2TV, VAN-TV55.2 , các website trong và ngoài Việt Nam trong các tiết mục y tế xã hội, lao động, dinh dưỡng.

- Tham gia chính chương trình Vấn Đáp Sống Khỏe của Hội Con Rồng Cháu Tiên VN Canada và YKHOANET thực hiện.

Hở Van Tim- Chích ngừa Shingles

Hở van tim

Hôm vừa rồi, cháu mới được bác sĩ cho biết cháu bi hở cả 4 van tim từ ít tới trung bình.  Xin Bác sĩ cho cháu biết hở van tim có ảnh hưởng tới sức khỏe không? Các triệu chứng nào cần phải quan tâm?  Hở van nào thì nguy hiểm (cháu bị hở lớn ở van 2 lá và van động mạch chủ).  Tại sao lại bị hở?  Khánh Vân

Trả lời

Hở là khi các lá của van không khép kín sau khi máu đi qua, khiến cho máu dội ngựơc gây ra ứ đọng phía bên này và thiếu hụt phía bên kia. Sa van (valve prolapsed) là tiêu biểu của hở van và thường xảy ra ở van 2 lá mitral. Các lá của van lật ngược lên tâm nhĩ trái, máu trào ngược khi tim co bóp.

Bệnh có thể thấy ở  một hoặc nhiều van. Van bên phải ít bị bệnh hơn van bên trái. Có tới 90% là mãn tính lâu đời, 10% cấp tính, mới xảy ra.

Có nhiều nguyên nhân đưa tới bệnh van tim như nhiễm trùng, chấn thương, bệnh cơ  tim hoặc do bẩm sinh.

1-Nhiễm trùng như trong bệnh Sốt Thấp (Rheumatic Fever) hoặc Viêm Nội Mạc Tim (Endocarditis).

Sốt Thấp thường thấy ở trẻ em do nhiễm họng với chuỗi cầu trùng tan huyết Streptococcus (Strep Throat) mà không được điều trị. Thế rồi vài ba chục năm sau xuất hiện dấu hiệu bệnh tim như là viêm, dày, cứng và thu ngắn các lá của van tim, nhất là van 2 lá giữa nhĩ trái/thất trái (mitral regurgitation) và van động mạch chủ. May mắn là ngày nay nhờ kháng sinh chữa viêm họng cho nên bệnh hở van tim giảm đi rất nhiều.

Viêm Tâm Mạc do vi khuẩn xâm nhập máu, tấn công van tim gây ra tổn hại tạm thời hay vĩnh viễn cho van. Vi khuẩn đến từ các phẫu thuật răng miệng, lạm dụng thuốc cấm chích tĩnh mạch hoặc nhiễm trùng tổng quát khác.

2-Bệnh tim do cao cholesterol, cao huyết áp, không vận động, thừa kế gia đình. Các bệnh này gây tổn thưong cho van đặc biệt là van động mạch chủ với calci bám vào. Người từ 65 tuổi trở lên thường nằm trong trường hợp này.

3-Bẩm sinh như trường hợp hài nhi chỉ có 2 lá ở van động mạch chủ (thay vì 3 lá)  hoặc có 3 lá nhưng 2 lá dính vào nhau.

Nhiều người mang bệnh van tim mà không có triệu chứng và không có khó khăn sức khỏe. Một số khác thì tình trạng trầm trọng hơn, có thể đưa tới suy tim, tai biến não, máu cục thậm chí thiệt mạng bất thình lình vì ngưng tim.

Triệu chứng chính của bệnh là tiếng thổi của tim (heart murmur) nghe qua ống nghe, gây ra do máu lưu hành hỗn loạn khi van tim bị hư hại, khuyết tật, thu hẹp…Đây là tiếng động thêm hoặc bất thường  khi tim co bóp, có thể rất nhỏ hoặc ồn to.

Điều trị bệnh van tim tùy thuộc loại van bị hư, tình trạng nặng hay nhẹ của bệnh. Có 3 phương thức trị liệu:

1-Theo dõi tình trạng bệnh.

Trường hợp bệnh nhẹ hoặc trung bình, chưa có các triệu chứng trầm trọng ảnh hưởng tới hoạt động của bệnh nhân, bệnh có thể được đặt trong tình trạng theo dõi..

2-Điều trị bằng dược phẩm

Thực ra không có dược phẩm nào để trị dứt được bệnh của van tim mà chỉ hỗ trợ tim, giúp tim làm việc hữu hiệu hơn, trì hoãn sự trầm trọng của bệnh, tránh biến chứng. Dược phẩm có thể là thuốc lợi tiểu, hạ cao huyết áp, điều chỉnh rối loạn nhịp tim, chống đông máu…

 3-Giải phẫu    

Tùy theo tình trạng bệnh, giải phẫu có thể là nong van, sửa van hoặc thay van.

-Nong van bị hep với quả bóng xẹp bé tí teo đưa vào van rồi bơm phồng lên, khiến cho van mở rộng rồi rút bóng ra.

-Sửa van, đặc biệt là van 2 lá mitral, để van hư hao hoạt động bình thường trở lại đựơc.

-Thay van với 2 loại van:

*Van làm bằng các vật liệu như vải, kim loại thép không rỉ, titanium hoặc gốm sứ.Lợi điểm của loại này là kéo dài lâu hơn, từ 10-20 năm. Tuy nhiên bệnh nhân phải uống thuốc chống đông máu suốt đời để tránh huyết cục ở tim hoặc trên van.

**Van làm bằng tế bào người hoặc súc vật như heo, bò, dùng được từ 10 -15 năm nhưng bệnh nhân có thể không phải uống thuốc chống đông máu.

Sau khi ổn định với điều trị, bệnh nhân tiếp tục cần được bác sĩ theo dõi. Báo cho bác sĩ nếu có thay đổi, biến chứng bất thường. Uống thuốc theo đúng chỉ định. Giữ hẹn với bác. Thay đổi nếp sống sao cho thích hợp với tình trạng sức khỏe của mình.

Chích ngừa Shingles

Tôi tình cờ ôm một bà bạn. Chẳng may bà này bị bệnh shingles. Xin cho biết liệu tôi cần chích ngừa bệnh này không. Xin cảm ơn. Linh Nguyễn

Trả lời

Thưa bà

Chúng tôi đề nghị bà nên kể trường hợp của bà với bác sĩ gia đình. Sau đây chúng tôi xin nói chung chung về chích ngừa bệnh này để bà rõ.

Shingles là bệnh do virus herpes zoster gây ra. Virus này cùng loại với virus gây ra bệnh thủy đậu (chickenpox). Để bị bệnh shingles, cần mắc bệnh thủy đậu khi còn ở tuổi bé thơ.

Shingles có thể điều trị được với các loại thuốc chống virus như là acyclovir (Zovirax), famiclovir (Famvir), Valacyclovir (Valtrex). Bác sĩ sẽ chọn lựa thuốc thích hợp với bệnh trạng. Các thuốc này tương đối an toàn, công hiệu nhưng khá đắt. Kháng sinh không có tác dụng nào đối với virus.

Năm 2006, thuốc chích ngừa Zostavax được chấp thuận.

1-Theo Cơ quan Thực Dược Phẩm Hoa Kỳ những người từ 60 tuổi trở lên, nên chích ngừa, vì theo cơ quan này, bệnh có thể xảy ra ở bất cứ tuổi nào, nhưng lớp người trên 60 thường bị zona nhiều hơn.

Theo cơ quan CDC, dù có bị shingles hay không, người trên 60 tuổi cũng cần chích ngừa với vaccin shingles.

Thuốc có mục đích bảo vệ cơ thể với sự tái hoạt động của virus gây bệnh thủy đậu (varicella-zoster virus).

2-Những người sau đây không nên chích ngừa:

-Người đã từng bị phản ứng trầm trọng với gelatin, kháng sinh neomycin hoặc bất cứ thành phần cấu tạo nào của thuốc chủng shingles.

-Người có hệ miễn dịch suy yếu vì:

-Nhiễm HIV/AIDS hoặc bệnh khác ảnh hưởng tới sự miễn dịch.

-Đang uống thuốc ức chế miễn dịch như steroid và dược phẩm sau khi tiếp nhận ghép bộ phận.

-Đang điều trị ung thư với hóa chất hoặc chất phóng xạ.

-Có tiền sử ung thư ảnh hưởng tới tủy xương hoăc hệ bạch bào như ung thư bạch cầu hoặc u hạch bạch huyết.

-Đang có bệnh lao mà không điều trị.

-Có thai hoặc có thể mang thai. Nếu muốn có thai, phải đợi 3 tháng sau khi chủng ngừa.

Người bị bệnh nhẹ như cảm lạnh có thể chích ngừa. Nhưng những ai đang bị bệnh trung bình hoặc nặng, nên đợi tới khi bình phục hẳn, kể cả người đang bị nóng sốt trên 101.3°F (38◦C).

Người đã bị shingles cũng cần chích ngừa nhưng nên đợi 2 năm.

Cũng như các dược phẩm, vaccin cũng có thể gây ra vấn đề trầm trọng cho sức khỏe như phản ứng dị ứng, nhưng rất hiếm. Chích ngừa một lần.

Virus trong vaccine thuộc loại còn sống, nhưng đã được làm giảm độc tính, chỉ có thể tạo ra tính miễn dịch chứ không gây ra bệnh được.

Một trở ngại là chi phí thuốc chủng khá cao: 150- 200 mỹ kim cho một lần chích ngừa. Người có Medicare được miễn chi phí.

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

Comments are closed