Có Những Niềm Đau.
Vào năm 1940, nhà triết học người Pháp là Decartes đưa ra
khái niệm “Con Đường Của Niềm Đau” kéo dài từ da (nơi mà một kích thích về đau
được đặt vào) tới não bộ ( nơi sự đau xẩy ra). Ông ta so sánh sự việc này như một
cái chuông nhà thờ: khi ta kéo dây chuông ở đầu này thì ở đầu dây kia chuông sẽ
kêu”
Trải qua nhiều
thế kỷ, các nhà nghiên cứu đều tăng tín nhiệm cho lý thuyết của Descartes. Năm
1894-1895, bác sĩ người Đức Max von Frey thực hiện một số thí nghiệm. Trước hết
ông ta xác định những điểm nhạy cảm trên da với nóng và lạnh. Rồi dùng một cái
kim gắn vào một ống lò xo nhỏ ông ta đo xem cần một sức mạnh bao nhiêu để gây
ra đau và cứ như vậy đo trên toàn bộ cơ thể. Sau cùng, ông ta làm lại như vậy với những miếng gỗ trên có gắn
những sợi đuôi ngựa dài 2 inches để vẽ những điểm nhạy cảm trên cơ thể. Rồi ông so sánh họa đồ
của ông với sự hiện diện của bốn điểm đặc biệt trên da mà ông gọi là cảm thụ
quan.
Sau này khi
các nhà nghiên cứu khác xác định được vị trí của các dây thần kinh nối liền những
cảm thụ quan với não , thuyết minh bạch thành hình: một cảm giác đặc biệt được
tiếp nhận bởi một thụ cảm đặc biệt và chuyển theo một dây thần kinh đặc biệt tới
một phần đặc biệt nào đó của não bộ.Các bác sĩ giải phẫu dùng lý thuyết này làm
căn bản để chấm dứt những cơn đau kinh niên bằng cách cắt đứt những sợi thần
kinh mà cơn đau cho là đã chạy qua.
Tuy nhiên,
những việc làm trên đây đều không đưa tới kết quả như ý muốn. Bệnh nhân vẫn còn
cảm thấy đau nhưng không xác định được ở đâu và một số đã kết liễu đời mình.Để
giải quyết vấn đề này, các nhà khoa học
quan sát cấu tạo của da nhưng vẫn không có tương quan nào giữa các điểm
nhạy cảm với nhiệt độ và các cảm thụ quan của von Frey.
Sau này ta
hiểu rằng cảm giác đau nếu có sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Thí dụ những người
cụt chân thường cảm thấy đau từ một cái chân giả tưởng phantom limb và tất
nhiên là không có những thụ cảm về sự đau. Và trong trường hợp này các thương
binh mới đầu sẽ không cảm thấy đau mặc dù họ bị thương trầm trọng.Như vậy cả
hai tình trạng tâm lý của mỗi người và hệ thần kinh trung ương phải có cùng vai
trò nào đó trong sự tiếp nhận sự đau.
Cổng kiểm soát.
Cho tới giữa
năm 1960, các nhà nghiên cứu về sự đau được chia làm hai nhóm. Nhóm thứ nhất chủ
trương thuyết chính xác. Nhóm thứ hai quả quyết rằng tất cả các điểm nhận cảm
giác đều phát ra các tín hiệu khác nhau và được truyền trực tiếp lên não bộ để
phân biệt xem cái nào là sự đau hoặc cái nào không phải.
Vào năm
1950, nhà tâm lý kiêm sinh lý học người Gia Nã Đại Ronald Melzack và nhà giải
phẫu thần kinh nước Anh Patrick Wall cùng làm việc tại Massachusetts Institute
of Technology đều thảo luận với nhau về tình trạng vật lý và tâm lý của sự đau.
Kết quả của các cuộc thảo luận này là sự phổ biến tập tài liệu Gate Control Lý
thuyết dây. Xin giải thích thêm về thuyết này:
Đây là
một thuyết hấp dẫn
lượng tử, được xây dựng
với mục đích quy tụ tất cả các hạt cơ bản cùng các lực cơ
bản của tự
nhiên, ngay cả lực hấp
dẫn. Các nhà vật lý
lý thuyết ngày nay đặt rất nhiều hy vọng vào lý thuyết này vì nó có thể
giải quyết được những câu hỏi như tính đối xứng của tự nhiên, hiệu ứng
lượng tử tại các lỗ đen (black hole), cũng như tại các điểm kỳ dị, sự tồn tại và phá vỡ siêu đối xứng… Nó cũng mở ra những tia sáng mới cho cơ học
lượng tử, không gian và thời gian. Trong lý thuyết dây, tất cả các lực và các hạt được miêu tả theo một lối hình học phong nhã,
như ước mơ của Einstein về việc thiết lập vạn vật từ khung hình học của không-thời
gian.
Có hai loại dây thần kinh
và một phần của cột tủy sống đều liên can mật thiết với cảm giác đau mặc dù bằng
cách nào thì không ai biết rõ. Có thể là khi da bị tổn thương, sợi thần kinh nhỏ
síu C chỉ mang các cảm giác đau tới cột tủy sống rồi tới não bộ và các sợi thần
kinh dày hơn A-beta chuyển các tín hiệu không đau. Tuy nhiên các sợi A-beta có
thể chuyển tín hiệu nhanh hơn và ở trong cột tủy sống chúng có thể chặn những dấu
hiêu về sự đau do các sợi thần kinh C.
Ngay cả các chú bé đều biết
sự ích lợi của sự xoa. Khi xoa một chỗ bị đau, các sợi A-beta đều được kích
thích và chặn một số cảm giác đau.Như thế cũng chưa hết: các cảm giác về sự đau
đều có thể bị chặn bởi não bộ.
Thản nhiên
trước sự đau
Trong trận
chiến Anzio Battle of Anzio vào thời khoảng gian từ tháng Giêng tới
tháng Năm, năm 1944, Trung Tá Henry Beecher của Đơn vị Quân Y Hoa Kỳ đều hết sức ngạc nhiên khi thấy có
nhiều binh sĩ Hoa Kỳ cảm thấy rất ít đau
khi bị thương mà lại nhẩy lên kêu la khi một nhân viên y tế chích một mũi thuốc
vào mông. Vào năm 1946, khi ông này phổ biến nhận xét của mình về 215 binh sĩ
thì ông thú nhận rằng kết quả đều hơi khó hiểu: 32.1% cho hay là không thấy
đau; 25.6% thấy hơi đau; 23.7% đau rất nhiều.Trong lúc đó khi so sánh kết quả
này với những thường dân bị thương trầm trọng ông ta thấy những người này đau
nhiều hơn.
Henry kết luận
rằng sự khác biệt chính là do người bị thương nghĩ thế nào về vết thương đó. Đối với các binh sĩ thì
có thể là không còn phải làm công việc nặng và sự chết, còn đối với thường dân
thì chỉ bắt đầu một thảm họa. Nên để ý rằng những gì xảy ra trước tai nạn cũng
rất quan trọng: đối với binh sĩ, tương tự như với các lực sĩ trước khi tranh
tài, đều hăng hái, chất kích thích adrenaline lên rất cao để sẵn sàng “đánh” hoặc
“chạy”-fight or flight còn thường dân thì cảm thấy đau vô tả.
Theo Henry,
sở dĩ như vậy là vì mỗi người cảm thấy sự đau khác nhau.
Vào năm
1950, Henry và mấy đồng nghiệp ở Boston tìm ra một khám phá mới. Rằng nếu một số
bệnh nhân bị đau trầm trọng lại được cho một giả dược placebo nói là thuốc trị
đau thì 35%
cảm thấy bớt
đau rất nhiều. Tác dụng placebo này chẳng khác chi sự lạc quan khích lệ bệnh
nhân như là những gợi ý của sự thôi miên.
Chữa đau
Nhiều loại
thuốc thường dùng để chữa đau như aspirin và thuốc gây mê đều được tìm ra vào cuối
thế kỷ thứ 19. Giải thích về sự dẫn truyền cơn đau do thuyết gate control cũng
không nói nhiều về các phương pháp chống đau.Thuyết này quả
quyết rằng việc đưa các cảm giác không- đau sẽ đóng cánh cửa đối với cảm giác
đau và như vậy sẽ chặn cảm giác đau chạy lên hệ thần kinh trung ương. Và như vậy
khi ta kích thích bằng các tác nhân dộc hại có thể làm giảm cơn đau.
Đóng toàn bộ hoặc một phần gate này ở cột tủy
sống có thể là nguyên tắc trị đau của châm cứu: dùng kim để kích thích một vùng
nhậy cảm nào đó có thể là để chặn đường đi của cơn đau. Đây cũng là nguyên lý của
kích thích dây thần kinh qua da của hai kim điện TENS có thể làm giảm đau đáng kể. Qua nhiều thập
niên, các nhà nghiên cứu đều cho là có nhiều cách để làm hết đau hoặc kinh niên
hoặc cấp tính.
Vào năm 1946, một bác sĩ
chuyên về gây mê Hoa Kỳ là John Bonica thành lập một bệnh viện để chữa đau đầu
tiên ở thành phố Seatles, tiểu bang Washington .
Ông bèn mời các nhà chuyên
môn khác nhau, từ bác sĩ giải phẫu tới các nhà chuyên về thần kinh tâm trí để
cùng nhau tìm hiểu về nguyên nhân cũng như cách thức điều trị chứng đau kinh
niên. Ngày nay bệnh nhân ở cả hàng ngàn bệnh viện ở Hoa Kỳ và trên thế giới đều
được chữa đau với dược phẩm, châm cứu, kỹ thuật thư dãn, vận động cũng như tham gia vào các buổi tư vấn.
Có thể giảm đau chỉ là phần rất nhỏ nhưng giúp họ kéo dài cuộc sống là quan trọng
hơn cả.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức.