Kỹ Thuật Y Khoa.
Từ
World WAR II, có những tiến bộ về kỹ thuật
y khoa đã khiến nhiều người chóng mặt. Sau đây chúng tôi xin ôn lại một số những
máy móc và kỹ thuật làm thay đổi toàn diện ngành y khoa.
Máy lọc máu( Kidney Dialysis)
Thận của con
người có mục đích là để lọc hết những cặn bã mà nếu để chúng tích tụ trong cơ
thể sẽ khiến cơ thể này bị hủy hoại.Chúng làm nhiệm vụ này như sau: trước hết
là lọc sơ sài qua những tiểu cầu gồm có một mớ các ống nhỏ với vách mỏng dính.
Sau đó là lọc qua các tiểu quản cầu.
Kể từ trước
năm 1914, một nhóm chuyên viên tại bệnh viện Johns Hopkins , Baltimore, đã sáng chế ra một
cái màng với những lỗ nhỏ li ti gọi là thận nhân tạo cho loài chó. Để làm tiểu
cầu, họ dùng chất cellulose nitrate pha lẫn với alcohol và ether rồi cho máu chảy
từ chó qua cái màng đó. Để máu khỏi bị dông, họ cho thêm chất kháng đông do những
con đỉa cung cấp.Khi những ống đó được ngâm trong nước tinh khì thì những vẩn đục
trong máu sẽ tự động thoát qua những lỗ nhỏ li ti cho tới khi chất lỏng ở hai
bên trong như nhau. Đây chính là sự thẩm tách (dialysis).Đó chính là sự phân
tách của các phần tử trong một chất lỏng tùy theo chúng có thể thoát qua một
cái màng sang một chất lỏng khác. Và sau đó phần máu nào đã sạch sẽ được truyền
lại cho con chó.
Kết quả
nghiên cứu trên loài chó của nhóm chuyên viên tại Johns Hopkins hầu như bị giới
khoa học bỏ qua ngoại trừ một người: đó là Willen Koff đang phục vụ tại
Municipal Hospital ở Kampen, Hòa Lan.Vào năm 1943, trong khi đất nước này bị Đức
Quốc Xã chiếm đóng, với rất nhiều khó khăn, ông ta đã thực hiện một máy lọc thận
cho con người dùng và thay vì ống làm bằng màng keo thì lại bằng lớp bọc súc
sích.
Sau này máy
của Willen được biến chế để máu có thể chảy qua những cái màng lớn mỏng làm bằng
giấy bóng kính do một bác sĩ Thụy Điển thực hiện. Nhưng máy quá cồng kềnh cho nên được thay thế bằng
những cuộn dẹp giấy bóng kính để máu có thể chảy qua mặt một bằng lớn nhất.Nhưng những màng lọc
này cần được rửa sau mỗi khi dùng nhưng bây giờ có thể được thay thế để tránh
nhiễm trùng.
Mới đầu máy
thay thận để lọc máu chỉ được dùng khi có bệnh nhân bị suy thận cấp tính hoặc
ngộ độc với các loại thuốc mà có thể lọc được.Mục đích là để bệnh nhân sống đủ
lâu trong khi chờ thận phục hồi hoặc cho tới khi chất độc bị loại hết ra ngoài.
Rồi tới đầu năm 1960, bác sĩ Belding Scribner tại University of Washington ở Seatle bắt đầu điều trị cho nhiều bệnh nhân bị
suy thận kinh niên bằng máy này.
Trong quá khứ
sự lọc máu như vậy là điều không thể thực hiện được. Hai cái ống nhỏ mang máu từ
động mạch tới máy lọc rồi rồi trả lại
tĩnh mạch sẽ bị đóng cục. Cứ như vậy vào mỗi mấy tuần lễ lại phải cắm kim ở những
địa điểm khác nhau và cuối cùng thì chẳng còn chỗ nào nữa mà cắm. Cuối cùng thì
cũng phải có giải pháp. Đó là việc dùng
những ống nhỏ làm bằng chất Teflon-Sililastic với phía trong nhẵn hơn và máu cục
khó lòng mà thành hình.
Ngay từ lúc
đầu dùng máy lọc máu hết sức là tốn kém khiến các bác sĩ phải vò đầu coi xem bệnh
nhân nào có lợi khi dùng máy và những người không may mắn danh82 ngồi chờ chết.
Scribner thành lập một ủy ban để lựa choi xem bệnh nhân nào cần được ưu tiên và
họ nghĩ rằng đây là trách nhiệm của xã hội chứ không phải là của các bác sĩ.
Ông ta cũng tìm cách giảm bớt chi phí lọc máu và tìm cách giúp cho nếp sống của
bệnh nhân mà ông đang điều trị. Như là thay vì phải tới bệnh viện một tuần lễ
hai lần, mỗi lần kéo dài cả 16 giờ. Tới năm 1946, ông sắp đặt để hai bệnh nhân được lọc máu ở
nhà với một cái máy giản dị và hầu như tự động.
Ngày nay thì rất nhiều bệnh nhan6duoc975 hướng
dẫn lọc máu tại nhà và sống đời sống tương đối bình thường. Tuy vậy và nói cho
cùng lì lọc máu vẫn không phải là giải pháp lý tưởng: bệnh nhân bị thiếu máu, dễ
bị nhiễm trùng đặc biệt là với bệnh viêm ganB và có thể bị trầm cảm nặng. Và giải
pháp lý tưởng cho những người pahi3 lọc máu này thay thận.
Máy TIM-PHỔI
Làm tim
ngưng đập vừa đủ để thực hiện một giải phẫu là điều mà không ai dám nghĩ tới
cho tới năm 1953. Nói một cách khác là khi Willem Kolff tìm cách lấy chất dơ ra
khỏi máu thì bây giờ ta phải tìm cách đưa dưỡng khí vào máu.
Vào tháng Mười
năm 1930 một bác sĩ giải phẫu Hoa Kỳ là John H. Gibbon , Jr đã cùng một nhóm
chuyen viên ở Boston thực hiện một ca mổ trên cơ thể một phụ nữ có ẩn danh là
“Edith S”để lấy ra một cục máu bịt kín động mạch phổi mang máu từ tim tới phổi.
Khi bà này chết, Gibbon quyết định sáng chế một cái máy có thể thay thế cho tim
và phổi trong khi giải phẫu.
Và Gibbon bắt
tay vào việc trong 23 năm. Máy đầu tiên của ông ta là một ống kim loại thẳng đứng.
Do sức ly tâm, một lớp mỏng máu bám vào đó. Trên lớp máu đó, ông ta thổi một luồng
dưỡng khí từ trên xuống dưới.Tuy nhiên, phương pháp này không giúp cung cấp dưỡng
khi đủ nhanh và khám phá của Gibbon tưởng như thất bại thì các cộng tác viên của
ông đưa ra ý kiến. Họ phủ mặt trong nhẵn
thín của ống với một mảng để lưới thật mỏng để làm nhiễu loạn màng mỏng
máu máu đồng thời cũng tăng bề mặt ống. Với sáng kiến này, họ đã có thể tăng lượng
dưỡng khí lên từ tám đến mười lần trong mỗi phút, đủ để kéo dài sự sống của một
người lớn.
Bác sĩ Nguyễn
Ý Đức