Vài nét về BS Ý Đức

- Tiến sỹ Y Khoa Quốc Gia

- Tuổi Ất Hợi

- Cựu học sinh Chu Văn An Hà Nội

- Tốt nghiệp Đại Học Y Dược Khoa Sài Gòn

- Hành nghề liên tục tại Việt Nam-Hoa Kỳ gần 40 năm.

- Biên khảo các vấn đề Y tế, Dinh Dưỡng Xã hội, Lao động

- Tác phẩm: Thuốc Mỹ Chữa Bệnh Ta, An Hưởng Tuổi Vàng, Sức Khỏe và Đời Sống, Người Cao Tuổi Việt Nam trên Đất Mỹ, Dinh Dưỡng và An Toàn Thực Phẩm, Bệnh Người Cao tuổi, Câu Chuyện Thầy Lang.

- Cộng tác với nhiều nhật báo, tập san, truyền thanh (RFI, RFA, VOA, Vietnam Hải ngoại, VAB, Dallas Radio, Lạc Việt Radio-Canada),  Đài truyền hình O2TV, VAN-TV55.2 , các website trong và ngoài Việt Nam trong các tiết mục y tế xã hội, lao động, dinh dưỡng.

- Tham gia chính chương trình Vấn Đáp Sống Khỏe của Hội Con Rồng Cháu Tiên VN Canada và YKHOANET thực hiện.

Nhà bác hoc Landsteiner và các loại máu.

  Nhà bác hoc Landsteiner và các loại máu.

 

Vào thế kỷ thứ 19, nhiều nghiên cứu cho hay sự truyền máu chỉ thành công nếu được thực hiện ở những  thành viên cùng chủng loại.Thêm vào đó có những tiến bộ trong việc ngăn ngừa nhiễm trùng và đã giúp giảm thiểu đáng kể những rủi ro trong khi truyền máu. Tuy vậy chúng vẫn còn rất nhiều.

                          Loại Máu

Vào năm 1900, một bác sĩ người Áo là Karl Landsteiner (1868-1943) tự cho mình có trách nhiệm tìm hiểu xem tại sao sự truyền máu lại thất bại. Khi đó ông đang làm việc tại University Vienna.

Karl pha một hỗn hợp gồm 30 nhóm máu của năm đồng nghiệp và của chính ông ta.Ông ta thấy rằng khi làm như vậy sẽ tạo ra sự kết tụ của các hồng huyết cầu. Nhưng có một điều đặc biệt là sự kết tụ này không xảy ra đối với mọi nhóm.  Karl kết luận rằng kết tụ hay không là tùy thuộc vào sự hiện diện hay không của hai kháng nguyên nằm ở mặt ngoài hồng huyết cầu. Nhắc lại kháng nguyên là những yếu tố giúp cho cơ thể sản xuất ra kháng thể. Ông ta đặt tên là kháng nguyên A và B.

Hai trong số các  đồng nghiệp của ông có những hồng cầu mang kháng nguyên A và hai kháng nguyên B. Khi máu của mỗi nhóm hòa lẫn thì chúng sẽ kết tụ lại với nhau. Khi máu của Karl và đồng nghiệp không dính lại với nhau khi được pha lẫn thì Karl quyết định rằng các tế bào máu đó không có kháng nguyên nào và gọi đó là máu nhóm O, có nghĩa là số không.

Karl gặp rất nhiều may mắn. Vì nghiên cứu của ông chỉ ��ược thực hiện với một con số rất nhỏ cho nên về phương diện thống kê có thể là tất cả đều có máu cùng nhóm. Đặc biệt hơn nữa là về sau này người ta mới khám phá ra rằng các nhóm máu không phân chia đồng đều.Chẳng hạn như là ở bên nước Anh, 46% dân chúng ở nhóm 0 và 9% có nhóm B.

Thực vậy, mãi tới năm 1902, sau khi nghiên cứu thêm, Karl mới biết rằng mình đã bỏ sót một group máu khác. Đó là  các hồng huyết cầu AB với cả hai kháng nguyên. Cho tới khi đó có ít nhất 14 nhóm máu khác nhau được tìm ra.

Đáng tiếc thay là những khám phá về A-B-O của Karl quá lớn mà vinh dự đến với ông quá trễ. Mãi tới năm 1930 Karl mới nhận được giải Nobel cho công việc khá quan trọng của mình về các group máu.

Sau đó Karl di cư từ nước Áo sang Hoa Kỳ và làm việc chuyên về nghiên cứu tại Rockefeller Institute for Medical Research tại New York. Cũng tại đây vào năm 1927 ông đã tìm ra group máu MN. Rồi tới năm 1936 ông xuất bản tác phẩm The Specificity of Serological Reaction để giúp thành hình khoa học về miễn dịch. Ông tiếp tục khám phá thêm về các vấn đề liên quan tới máu và đây là điều rất quan trọng nhất là khi đó đang có World War II, khi mà nhu cầu về máu rất quan trọng đối với các chiến sĩ bị thương.

            Các Rhesus Factor

 Vào năm 1939, hai khoa học gia Hoa kỳ là Philip Levine và Rufus Steton cho hay một trường hợp bất thường. Một thiếu phụ đã bị sẩy thai sau tám tháng có bầu. Vì xuất huyết quá nhiều, bà được  truyền máu của người chồng có cùng nhóm O với mình. Bà bị phản ứng dữ dội mặc dù cả hai đều cùng nhóm như nhau. Theo các nhà khoa học trên, huyết thanh của người vợ đã làm cho hồng cầu của người chồng kết tụ với nhau. Khi họ hòa lẫn huyết thanh của bà vợ với hồng cầu của 104 người cho máu tất cả cùng group O thì 80 mẫu máu kết tụ với nhau.

Các nhà khoa học này kết luận rằng hồng cầu của người vợ vốn đã không có một kháng nguyên nào đó. Bà đã tạo ra kháng thể sau khi tiếp xúc với thai nhi. Thai nhi này lại thừa hưởng kháng nguyên của người cha. Khi vợ nhận được máu của chồng, kháng thể của vợ tấn công hồng huyết cầu của chồng và tạo ra một phản ứng khiến vợ suýt nữa thì mất mạng.

Cùng khi đó thì Karl nghiên cứu sự truyền máu giữa những chú khỉ Indian Rhesus và thỏ và chuột lang. Ông ta thấy kháng nguyên  Rhesus do những chú thỏ và chuột lang không những chỉ khiến cho hồng huyết cầu của khỉ kết tụ với nhau nhưng đồng thời cũng có phản ứng tương tự ở sáu trong số bảy người da trắng tại thành phố New York.Theo Karl, cả khỉ và đa số dân Nữu Ước đều có cùng loại kháng nguyên và ông ta gọi là những ‘Rhesus factor’. Như vậy,  cả những chú khỉ và đa số dân Nữu Ước  đều Rhesus dương ( Rh +) còn máu những người không bị ảnh hưởng là ‘Rhesus Âm’ ( Rh-).Nhiều  nghiên cứu khác cho hay các kháng nguyên Rh  có thể còn tìm thấy ở huyết thanh những người đã có phản ứng trầm trọng sau khi được truyền với loại máu coi như thích hợp.

Tuy nhiên sự khám phá này dù có quan trọng như là giúp sự truyền máu hầu như an toàn nhưng cũng còn nhiều khó khăn cho sức khỏe của thai nhi. Vào năm 1941, căn cứ vào những khám phá vĩ đại của Karl, hai nhà khoa học Levine và Steton thấy rằng phụ nữ đã bị sảy thai đều Rh- và người chồng đều Rh+. Ngoài ra, đa số sảy thai mà đã chết đều mang bệnh gọi là Loạn nguyên hồng cầu erythroblastosis foetalis. Đây là bệnh thường xảy ra trong một số gia đình mà nguyên nhân chưa được biết. Các nhà nghiên cứu cho hay đây là một trong nhiều bệnh với cùng một nguyên nhân: sự bất đồng về Rhesus giũa mẹ và thai nhi. Ngày nay, bệnh này còn được gọi là bệnh loãng máu của thai nhi. Với sự thành công của Karl, các bà mẹ đều được khuyên là nên đi thử về kháng nguyên rồi điều trị .

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

Comments are closed