Ghép Bộ Phận
Vào thế kỷ thứ ba BC, một y sĩ người
Trung Hoa là Pien Ch’iao đã thực hiện một cuộc giải phẫu thần sầu với nhiều bộ
phận giữa hai quân nhân mà ông ta đã gây mê với rượu vang pha chất gây ngủ. Được
khuyến khích bởi phép tiên , nghe nói vị y sĩ này đã thay nhiều bộ phận trong
cơ thể trong đó có trái tim . Theo lời kể lại, ba ngày sau những binh sĩ này coi
bộ vẫn khỏe mạnh.
Một nguồn tin đáng tin cậy hơn quả
quyết rằng ghép mô bào đã được một y sĩ người La Mã xưa là nhà tự điển bách
khoa Cornelius Celsus ghi lại. Trong tác phẩm De Medicina, ông ta đã trình bầy lại rằng các mô bào đã được ghép từ
người này sang người khác. Sau đó 150 , Galen đưa ra lời hướng dẫn rất chi tiết
về sửa da mặt bị hư vì ghép da.
Mặc dù đã có những thành công rất sớm
của Trung Hoa, La Mã và các vị thánh như Cosmas và Damian vào thế kỷ thứ tư, căn
bảng của giải phẫu cấy ghép đã được bắt đầu tại Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ thứ 20 do
nhà giải phẫu Alexis Carrel và sinh lý học Charles Guthric thực hiện. Sự thành
công trong việc nối các mạch máu đã tạo cho họ một tấm nhún có thể dùng trong tất cả các giải phẫu ghép bộ
phận sau này. Carrel và Guthrie còn chứng minh rằng không những chỉ dễ dàng ghép
các mô bào, các bộ phận cơ thể và chân tay mà cũng không cần nối lại các dây thần
kinh để việc chuyển ghép thành công .
Lúc đó đa số kết quả đều được coi như là
do Carrel thực hiện và Guthrie dù đóng góp nhiều nhưng chỉ nhận được rất ít chú
ý.
Định nghĩa sự chuyển ghép.
Chữ chuyển
ghép được hiểu một cách hết sức rộng rãi. Những bộ phận như thận và các mô bào
như da và tủy có thể được lấy từ một động vật rồi ghép lại vào cùng một động vật
đó. Cũng vậy, chúng ta có thể lấy từ một động vật này rồi ghép vào động vật
khác cùng loại và được gọi là ghép cùng giống. Khi một bộ phận hoặc mô bào của
một động vật được ghép cho một động vật khác loại thì được gọi là ghép khác giống.
Trong mươi
năm kế tiếp, các loại ghép kể trên đều
được liên tục thực hiện với một số thành công hoặc như có nhiều người cho là
không thỏa mãn.Vào năm 1905, Eduard Zrim rất thành công việc ghép giác mạc tại
Olmutz, Moravia, Tiệp Khắc và phương pháp này phải đợi gần 50 năm trước khi trở
thành phổ biến ở khắp thế giới. Vào năm 1912, Guthrie ghép đầu của một con chó
nhỏ vào nách một con chó lớn và chú chó lớn này chỉ sống được mấy ngày sau khi giải
phẫu.Ghép này cũng được bác sĩ người Nga Vladimir Demikhov thực hiện vào 35 năm
sau và đầu chú chó con sống được 29
ngày. Một thí nghiệm của Robert J White ở Cleveland cho hay não bộ của một con
khỉ có thể giữ sống được vài giờ với sự nuôi dưỡng bằng máu của con khỉ khác.
Mặc dù đã
có những khoe khoang kéo dài cả từ nhiều trăm năm nhưng có một trường hợp ghép
thành công nhất được thực hiện ở Boston vào năm 1962. Một tai nạn đã khiến chú
bé 12 tuổi mất cánh tay phải ngay dưới vai. Cánh tay được giữ trong nước đá trên
đường mang vào Massachusetts
General
Hospital và ghép lại cho cậu bé y như trước. Mấy tháng sau hai bác sĩ giải phẫu
Ronald Malt và Charles Charles McKhann hoàn tất công việc khi họ nối lại dây thần
kinh cho chú bé.Trong vòng hai năm cậu bé hầu như có thể xử dụng được cánh tay
và bàn tay thậm chí có thể cử tạ nhẹ.
Sự chối từ
Xung khắc của
các mô bào và bộ phận giữa mỗi cá nhân dường như tiếp tục ám ảnh sự cố gắng của
các nhà ghép bộ phận tiên phong. Ghép trên cùng cơ thể thường thường thành công
nhưng ghép từ con vật này sang con vật khác cùng loại hoặc từ một con
vật sang một con vật khác loại đều gặp khó khăn. Sự chối từ này là hậu
quả trực tiếp giữa hệ miễn nhiễm của người nhận muốn tấn công hoặc tiêu hủy mảnh
ghép.
Charles
Darwin đang nghiên cứu về sự phát triển
và nguồn gốc của các chủng loại kèm theo với nghiên cứu về di truyền của Gregor
Mendel đã làm thay đổi hiểu biết khoa học của mọi người về khác biệt giữa các đời sống.???? Sau khi Karl Landsteiner phổ biến
nghiên cứu của mình về loại máu thì mọi người đều hiểu sự khác biệt giữa các mô
bào, bộ phận thậm chí cả những tế bào. Hơn nữa, những khác biệt này còn đưa tới
sự không tương hợp: hòa lẫn máu nhóm A với máu nhóm O sẽ khiến chúng dính lại với
nhau vì sự có mặt của kháng thể trong
các hồng huyết cầu của từng nhóm.
Hiểu biết về
cách khước từ và loại bỏ bắt đầu xuất hiện từ sau thế chiến thứ hai chấm dứt.
Vào năm 1945 khoa học gia người Mỹ là Ray Owen cho hay rằng hai con bê sinh đôi
không cùng giống đều có thể nhận ghép tế bào của nhau chẳng khác chi chúng hưởng
cùng một dòng máu khi chúng còn ở trong dạ con của mẹ chúng.
Dựa vào ý
kiến của Owen kèm theo
những hiểu biết của mình về cách thức cơ thể phản ứng với siêu vi trùng, thuốc chủng
ngừa và các chất lạ, giáo sư Macfarlane Burnet ở Melbourne , Úc châu, đã đưa ra
một số lý thuyết về miễn nhiễm. Theo Burnet, sự miễn nhiễm được thành hình
trong dạ con khi thai nhi tự học để tạo ra những mẫu tự về kháng thể.
Bằng chứng
của những ý tưởng này là do giáo sư Peter Medawar và các cộng tác viên từ
London University of Zoolonogy đưa ra.Trong khi tìm hiểu về cách ghép da,
Medawar nhận thấy nếu ghép cho con vật đó trên một mẫu da từ cùng một con vật thì
mẫu da sau sẽ bị khước từ mau hơn là mẫu thứ nhất. Ông ta cũng chứng minh rằng
nếu người nhận được cho bạch huyết cầu của một người sẽ cho trước khi ghép thì ghép này sẽ mau hư. Lý do là vì da và các bạch cầu có cùng kháng
nguyên và khi ghép đã tạo ra những miễn nhiễm mới chống lại mảnh da đã ghép.
Madawar và
các cộng tác viên cùng làm một dự án khác. Đó là pha lẫn tế bào của mấy con chuột
nhỏ mầu nâu vào thai nhi của chuột có mầu trắng để coi xem sự ghép da giữa hai
loại có kết quả tốt hơn hay không. Khi thai nhi đẻ con, họ ghép một miếng da của
con chuột cho lên lưng. Miếng da mọc lại dễ dàng và sống lâu hơn thường lệ. Từ
kết quả này, Mandawar đưa ra giả thuyết là khi ở trong dạ con, thai tiếp nhận
những tế bào của vật sẽ cho và tạo ra sự
dung nạp miễn dịch với các mảnh ghép và
Nhờ sự đóng
góp và hiểu biết về miễn dịch nhân tạo và dung nạp miễn dịch , cả hai vị này đều
nhận được giải Nobel về Y học năm 1960. Họ cũng nhận được rất nhiều giúp đỡ cần thiết
để tìm cách kéo dài sự sống của các mô bào được chuyển ghép.
Thận và Phổi
Đứng đẩu trong danh sách chuyển ghép
các bộ phận là thận. Đứng đầu danh
sách các bộ phận được ghép là thận.Cơ quan này rất giản dị để lấy đi và thay thế với chỉ có một động mạch và tĩnh mạch thông
nhau. Mỗi cá nhân có hai trái thận vì thế mỗi người có thể hiến tặng một trái
cho người khác. Để phòng ngừa nếu chẳng may trái thận còn lại bị hư ta có thể
dùng cách lọc máu.
Phẫu thuật
ghép thận khác giống có thể do một bác sĩ giải phẫu người Úc là E. Ullmann thực
hiện năm 1902 khi ông này chuyển ghép thận của một con chó vào cổ của một con cừu.
Rồi vào năm 1940 máy lọc thận nhân tạo được thành hìnhvà nhiều bệnh nhân có thể
chịu đựng giải phẫu. Năm 1954, các giải phẫu gia ở Boston đã thành công trong
việc chuyển thận từ một người 24 tuổi bị bệnh cả hai trái thận và gần chết và
anh này đã sống rất khỏe mạnh nhờ nhận được một trái thận lành mạnh của người
em song sinh.
Bác sĩ Nguyễn
Ý Đức, st.