Y Học Đông Phương
Hệ thống y học
Trung Hoa và Ấn Độ khi xưa vẫn còn đến ngày nay và hầu như không thay đổi. Nó
khác rất nhiều đối với các văn hóa khác và được coi như xích lại gần với y học
tây phương.
Trung
Hoa ngày xưa
Trước 400BC,
y học Trung Hoa được tách biệt với tôn giáo và ma thuật và do các nhà chuyên
môn chịu trách nhiệm.Các chương trình này được quốc gia tổ chức và được đánh
giá tùy theo kết quả. Thấp nhất là các giải phẫu gia, một nhóm rất ít mà người
Trung Hoa gọi là ‘hạng thứ ba’.
Các bác sĩ Trung Hoa cố gắng chữa lành bệnh bằng
cách tái lập sự hòa hợp và cân đối của năm chất căn bản: đất, nước, lửa, gỗ và
kim loại, mà năm chất này tạo ra mọi thứ. Họ cũng tin hai chất đối nghịch nhưng
lại hỗ trợ nhau. Âm là mặt tối, vẻ bên ngoài của phụ nữ và dương là ánh sáng,
khô và đàn ông. Người Trung Hoa cũng tin rằng một sự việc không thể nào có mà
không có sự vật kia như trong nghĩa của các chữ: âm tức là “phía tối của trái đồi”,
dương là phần sáng của trái đồi”.
Đa số những điều mà ta biết về y học trước đây
của Trung Hoa đều ghi trong sách Nội Kinh, được viết vào giữa năm 479 và 300BC.
Đây là một
cuộc đối thoại giữa ‘Vua Mầu Vàng’ Hoàng Đế được coi như sống trong khoảng 2629
và 2598 BC, với vị Thủ Tướng là Kỳ Bá. Sách đặc biệt nói về châm cứu: chữa bệnh
bằng cách châm kim để cho không khí lưu thông trong cơ thể tại một trong 365
huyệt ( cũng có thể là 600 huyệt tùy theo các trường) dọc theo những đường
kinh. Các đường kinh này không phải là hệ
thống thần kinh- mổ con người là điều cấm đối với người Trung Hoa khi xưa và
các y sĩ đều biết rất ít về cơ thể học- nhưng một số đều biết về cơn đau, chẳng
hạn đau gan là ở phía xương bả vai bên phải.
Nội Kinh
cũng tả 12 mạch mà mỗi y sĩ đều đếm, mỗi cổ tay có sáu mạch. Đặc tính thơ mộng của
mỗi mạch đều được ghi: chẳng hạn “êm như
dòng nước’, ‘cứng như đá’, ‘như giọt mưa trên mái’, ‘nhẹ như đánh vào tay với một
sợi lông’- và tất cả diễn ra tới mấy tiếng đồng hồ.
Các thầy thuốc
Trung Hoa cũng dùng ‘ngải’. Một cục nhỏ bột lá ngải được đặt thành hàng trên một
điểm châm nào đó. Hơi nóng có thể gây ra những bóng nước sẽ được coi như tăng độ
dương; cảm giác này sẽ làm nhẹ cơn đau vì b��nh nhưng lại tạo ra cảm giác đau
khác.
Người Trung
Hoa cũng có một dược phòng rất lớn với 2000 vị và 16000 môn thuốc và tất cả
không phải là dược thảo; có nhiều chất trông rất lạ và đáng ghê sợ theo nhãn
quan dân tây phương. Bệnh nhân sẽ nhận được nhiều chất như bột cá biển để chữa
bướu cổ, thịt rắn cho đau mắt, chất nước đen của con cá mực hòa lẫn với dấm cho
các bệnh về tim và da voi cho cơn đau kéo dài.
Y Học ngày xưa của Ấn Độ.
Ngày nay rất
khó để tìm hiểu nguồn gốc của nền y học Ấn Độ mà chỉ biết về hệ thống Ayurveda
tức là khoa học đời sống. Có rất ít ghi chép về y học và cho tới nay chỉ truyền
khẩu lại bốn cuốn gọi là Vedas.
Y học
Ayurvedic căn cứ vào hai bản phụ Atharva Veda và được coi như do các tác giả: Charaka
về y học và Sushuta Samhita về giải phẫu. Cho tới nay không ai biết ngày viết của
các sách này nhưng nhà nghiên cứu cho là chúng được viết vào giữa các năm
1000BC và AD 1000.
Không giống
như y học Trung Hoa, Ayurvedic thiên về tôn giáo. Các bác sĩ dùng thần chú rất
nhiều trong khi phát thuốc hoặc giải phẫu. Tuy nhiên, cũng như y học Trung Hoa,
họ xác định các điểm trên cơ thể được coi như quan trọng cho sức khỏe, gọi là
marmas. Nếu một người bị thương ở một trong những marmas đó thì tương lai có thể
thiệt mạng vì một số liên hệ tới các mạch máu chính, dây thần kinh và gân.
Các y sĩ Ấn
Độ cũng tin rằng rối loạn của nhiều chất khác nhau –trong trường hợp này, thì
gió, mật,đờm và máu đều gây ra bệnh. Có thể là thuyết này do khách du lịch bị bệnh
rồi đưa vào Hy Lạp, là nguồn gốc của bốn chất lỏng là máu, đàm, mật vàng và mật
đen.
Ấn Độ rất xuất sắc về giải phẫu.Chưa có một nơi nào trên thế giới ngày xưa mà giải
phẫu từ trong ra ngoài cơ thể lại tiến bộ như vậy. Họ có 121 bộ dụng cụ bằng
thép khác nhau: dao mổ, ống thông, ống rút nước tiểu và cả nam châm để lấy những
vật bằng kim loại. Các dụng cụ này dùng để thực hiện nhiều việc như đốt miệng ống
của lỗ rò, khâu vết thương, rút chất lỏng, chữa cườm mắt, lấy sạn của bọng đái
và thận và nhất là trong lãnh vực giải phẫu thẩm mỹ, để sửa mũi và dái tai.
Bác sĩ phải
nhớ làm lòng những việc làm của Vedic và
Samhitas và thực tập kỹ thuật mổ trên vật bất động: rạch trên thức ăn ngâm dấm,
nghể với túi đựng nước chanh, đốt các miếng thịt. Suhruta Samhita còn đòi hỏi
các thầy thuốc trẻ này một số đặc tính khác như trong sạch trong tư tưởng và một
trí nhớ tốt và họ phải có một cái lưỡi mỏng, môi, răng, mũi thẳng và rộng, lương
thiện và cặp mắt thông minh.
Bác sĩ Nguyễn
Ý Đức,st