Vài nét về BS Ý Đức

- Tiến sỹ Y Khoa Quốc Gia

- Tuổi Ất Hợi

- Cựu học sinh Chu Văn An Hà Nội

- Tốt nghiệp Đại Học Y Dược Khoa Sài Gòn

- Hành nghề liên tục tại Việt Nam-Hoa Kỳ gần 40 năm.

- Biên khảo các vấn đề Y tế, Dinh Dưỡng Xã hội, Lao động

- Tác phẩm: Thuốc Mỹ Chữa Bệnh Ta, An Hưởng Tuổi Vàng, Sức Khỏe và Đời Sống, Người Cao Tuổi Việt Nam trên Đất Mỹ, Dinh Dưỡng và An Toàn Thực Phẩm, Bệnh Người Cao tuổi, Câu Chuyện Thầy Lang.

- Cộng tác với nhiều nhật báo, tập san, truyền thanh (RFI, RFA, VOA, Vietnam Hải ngoại, VAB, Dallas Radio, Lạc Việt Radio-Canada),  Đài truyền hình O2TV, VAN-TV55.2 , các website trong và ngoài Việt Nam trong các tiết mục y tế xã hội, lao động, dinh dưỡng.

- Tham gia chính chương trình Vấn Đáp Sống Khỏe của Hội Con Rồng Cháu Tiên VN Canada và YKHOANET thực hiện.

CAO NIÊN MÀ PHONG ĐỘ

Bác sĩ E. F. Schmerl, chuyên khoa tâm thần người cao niên, đã nêu ra nhận xét: ” Có cả ngàn cửa ngõ đưa tới sự già trước tuổi và chết yểu. Một trong những cửa ngõ đó là dáng điệu ( posture ) xấu của con người”.

Trong tác phẩm “Nhà Quê Ra Tỉnh” của nhà biên khảo Đoàn Thêm, các nhân vật Dần, Tỵ, Hợi khi nói về lớp người lớn tuổi mấy chục năm về trước, ” đều phàn nàn rằng các cụ gắng uốn nắn con cháu, mà chính mình lại có những thái độ hoặc cử động không ngoạn mục chút nào. Đi, đứng, ngồi thì bệ vệ như quan to, hoặc co ro khúm núm, hoặc nghiêm trang trịnh trọng qúa đến nỗi thành cụ non từ khi ba bốn mươi tuổi. Nhiều ông mới chừng 50 đã còng lưng, bước đi thì lê gót với đôi giầy ta lẹp kẹp”.



[More]

CÒN LẠI ĐÔI TA

Nay thử tìm hiểu về sinh hoạt của cặp vợ chồng đã trên ba mươi năm chung sống, con cái ở riêng, và hai người bắt đầu về hưu. Họ sẽ thích nghi ra sao để cùng nhau bạch đầu giai lão, cũng như để:

“Đôi chồng vợ ra vào khắng khít, mắm muối mà vui ” Vương Hồng Sển.


Hôn nhân vợ chồng thuở ban đầu khắng khít là do yêu nhau, rồi lấy nhau. Mặc dù biết là mỗi người có nhu cầu, sở thích riêng, nhưng vì mới, còn tâm đầu ý hợp, còn tập trung tất cả vào nhau trong ái ân, nên họ đã quên đi để thành vợ chồng. Đó là TÌNH.


Rồi với ngày tháng, hóa chất đam mê ban đầu cũng lợt phai. Từ đây, gắn bó tình già sẽ do sự hiểu nhau, sự chia sẻ vui buồn, phụ thuộc lẫn nhau, thích nghi, trọn vẹn cho nhau. Mức độ thỏa mãn trong hôn nhân ở giai đoạn này được nhìn qua phẩm chất của đời sống hai người: hạnh phúc bên nhau, đồng lòng, cố kết với nhau, biểu lộ thương yêu, giảm thiểu phiền não. Hai người có thể yêu nhau trở lại khi cùng nhìn về một hướng, sắp xếp cho tương lai cũng như tận hưởng hiện tại, giải quyết trở ngại, khó khăn. Bây giờ đối với nhau cần có NGHĨA.



Con cái với cha mẹ già.


Đã có nhiều bằng chứng rằng con cái giữ một vai trò quan trọng nào đó trong hoàn tất đời sống lứa đôi của người cao tuổi.


Không có con, tuổi già như cô đơn, đời sống trống rỗng, không đầy đủ. Mà khi chúng ra ở riêng, người làm cha mẹ có những tâm trạng khác nhau. Có cặp vợ chồng cho là sự vắng bóng con cái sẽ tăng thêm tình khắng khít giữa hai người, họ sẽ hạnh phúc hơn, có nhiều thì giờ cho nhau, sẽ cùng nhau thực hiện nhiều chương trình một cách tích cực hơn. Hai người sẽ như đi vào thời gian trăng mật thứ hai.


Cũng có nhiều người mang một niềm trống trải, thầm lặng, thấy đâu đây như vắng thiếu vài tiếng nói, mấy dáng người. Họ sợ là sẽ bị cô đơn, và cuộc sống sẽ không được trọn vẹn.



Khi đã về hưu.


Nói đến về hưu, ngày nay thường là nghỉ ở công việc chính, đã theo đuổi mấy chục năm qua, và bắt đầu một số sinh hoạt nào đó không có tính cách ràng buộc và không phải là nguồn tài chánh căn bản cho những năm còn lại. Vấn đề cần lưu tâm là hai người sẽ có 24 giờ bên nhau, trong một hôn nhân thông thường là tình bớt, nghĩa tăng. Có nhiều vui buồn, khó khăn mà hai người cần khắc phục, để mang lại thỏa mãn vợ chồng trong những năm về cuối.


Nên lưu ý tới tâm trạng khác nhau trước sự về hưu:


a-Phân vân khi sắp nghỉ;


b-Háo hức trong thời gian đầu, cho là mình sẽ tận hưởng nó và có nhiều chương trình để làm;


c-Vỡ mộng khi thấy cuộc sống chậm lại, những dự kiến không thực hiện được;


đ-Thức tỉnh, sắp đặt lại hướng đi, việc làm thích hợp với thực tại;


e-Rồi ổn định trong môi trường sinh hoạt mới được hoạch định.


Có người đã nói: cưới nhau dễ, sống đời cũng không khó gì, nhưng sống trong hôn nhân và hạnh phúc với nhau không phải là dễ, nhất là khi chỉ còn hai người. Nhiều người thấy thời gian gần nhau mỗi ngày quá nhiều, làm gì cho hết.


Khi chồng về hưu trước, thì vợ cho là sẽ mất đi một số tự do cá nhân, một số thì giờ dành cho sinh họat riêng tư mà mình đã làm như giao hữu với bạn bè, nhóm hội từ thiện. Họ phải dành thêm một số thời giờ để cung ứng cho nhu cầu mới của chồng, đồng thời vẫn phải làm công việc gia đình như trước. Nhưng đa số các bà đều vui vẻ vì có cơ hội gần các ông nhiều hơn.


Mà chồng vì mất đi môi trường làm việc trước đây, lại ít liên hệ giao tế xã hội, nên có nhiều thì giờ với vợ, cũng như phụ thuộc vào vợ . Khi vợ nghỉ hưu trước thì đa số các bà đều cảm thấy thoải mái, vì có thêm thì giờ với chồng đồng thời để làm một số công việc gia đình mà trước đây vì đi làm nên không thực hiện được .



Một khía cạnh quan trong trong thời gian về hưu là chia sẻ công việc nhà.


Quan niệm “chồng chúa, vợ tôi” đã quá xưa. Đa số cặp vợ chồng về hưu đều đồng ý là phải có sự chung sức lo công việc trong nhà, mỗi người một số trách nhiệm, công việc do đôi bên cùng thỏa thuận. Những việc như mua sắm lặt vặt, rửa bát, sửa soạn ăn sáng có thể thay phiên. Cắt cỏ, sửa hư hao nhỏ trong nhà chắc phải dành cho quý ông. Bữa ăn chính, mua thức ăn, sắp xếp, trang hoàng nhà cửa vẫn phải nhờ đến ” bà nó “.


Tài chính, tiền nong đều cùng nhau trách nhiệm, tránh dành ngân khoản chi tiêu riêng vì đã cùng nhau thì còn gì mà phải riêng tư.


Có nhiều cặp không mấy vui vì một bên quá an lạc, hưởng nhàn, để bên kia gánh hết mọi việc trong nhà, gây nhiều căng thẳng.



Giải quyết cách biệt.


Hôn nhân nào chẳng có mâu thuẫn, bất hòa mà giải quyết những bất hòa đó đòi hỏi sự liên tục thương thảo, hiểu nhau, hoà hoãn, nhường nhịn nhau, kiên nhẫn với nhau. Rồi lại còn nuôi dưỡng tình già sao cho “tương kính như tân”.


Người bình dân ta hằng nói :


“Đạo vợ chồng khó lắm bạn ơi,


Chẳng dễ như ong bướm đậu rồi lại bay”.


Ngày xưa, sự đối thoại, tìm hiểu giữa các cụ ta rất giới hạn. Khi có vấn đề, giải quyết thường đơn phương, độc đoán, không có thảo luận. Nên sau đó dù mọi việc được coi như xong, nhưng ấm ức vẫn có trong lòng. Người lao động, ngày thì đầu tắt mặt tối, lo làm đủ ăn, tối nghỉ, đâu còn thì giờ để giải trí, nói chi đến đả thông, bàn luận.


Ngày nay, sự giải quyết dị biệt đã khá hơn. Cặp vợ chồng già đã dành nhiều thì giờ để có sự thông cảm, chia sẻ quan tâm về mọi vấn đề. Cụ bà thường để ý nhiều về an toàn kinh tế cho hai người, cụ ông đặt trọng tâm vào có người bạn đường lâu dài. Họ cũng chia xẻ với nhau về tôn giáo, về vấn đề xã hội. Tuy nhiên, một số ít người khi gặp vấn đề thì hoặc lảng tránh, nói lập lờ để đánh lạc hướng, hay phủ nhận cho xong. Cũng có cụ vẫn hay giữ uy quyền, chỉ thích ra lệnh.


Có nhiều cách để giải quyết những dị biệt, mà thực ra đa số các cụ đều cho là, tới tuổi này rồi, chúng tôi chẳng còn mấy khác biệt.


Họ áp dụng phương thức dân gian ” chồng giận thì vợ làm lành, miệng cười hớn hở rằng anh giận gì.” Hoặc khi không nhường nhịn được thì cho nó xả hơi ra, mà nên chồng lui, vợ tới, luân phiên xả chứ mà chồng tới, vợ tới thì chắc sẽ nổ như tạc đạn.


Sau đó, bình tĩnh nhận diện vấn đề, cùng góp ý, đả thông cho khỏi ấm ức.


Nhiều người nghĩ thôi kệ nó, vợ chồng ai chẳng có khác biệt, để từ từ rồi đâu sẽ vào đó. Nhưng trên thực tế, dị biệt mà không giải quyết thì nó trở nên khó mà đối phó, làm cản trở sự xích lại gần nhau của hai người.


Lòng tín nhiệm, tin cậy nơi nhau cũng cần cho sự ổn định tình nghiã về già. Nó như mắt xích nối giữa hai người, như sợi chỉ quấn qua quấn lại trong tấm vải quan hệ đôi bên. Họ tin tưởng ở lời đã ước hẹn, và trông đợi phần mình sẽ hưởng. Một bất tín, dù nhỏ, dưới một khía cạnh nào đó của hôn nhân cũng có thể đưa tới bất tín khác, và là nguồn gốc của mọi xáo trộn trong tương lai.


Đôi khi hai người ngồi lại, dở chồng ảnh cũ, ôn lại những vui buồn đã qua, những kỷ niệm của thuở ban đầu. Sự kiểm điểm này là để dùng quá khứ bổ túc, tăng cường cho hiện tại, coi xem ta đã ra sao và đã làm gì để có hôm nay. Nó giúp tìm ra những điểm thiếu sót để từ từ sửa đổi, giúp ta có cơ hội cùng làm những điều hai người thích làm với nhau khi trước. Cũng như giúp hiểu biết hơn những thầm kín của người bạn đường.



Săn sóc thương yêu.


Săn sóc nhau khi đau ốm có ảnh hưởng gì tới liên hệ giữa hai người.


Kinh nghiệm cho hay khi một người đau ốm thì người kia thường tạm hoãn các sinh hoạt riêng tư để săn sóc, và đều cho là sự săn sóc này làm tăng quan hệ vợ chồng. Đôi khi ông chồng hơi có khó khăn hơn bà vợ khi làm dịch vụ này, nhưng nói chung họ đều sẵn sàng, vui vẻ . Ngoài tác dụng tình cảm làm giảm căng thẳng tâm thần, sự quan tâm săn sóc còn mang đến một số ích lợi sinh học như làm tăng khả năng miễn dịch của cơ thể, kích thích sức sống người cao tuổi .


Tương tự như săn sóc, sự trìu mến thương yêu cũng mang lại nhiều điểm lợi cho quan hệ vợ chồng già. Khi tỏ tình thương yêu nhau, não bộ sẽ tiết ra kích thích tố Endorphine và Phenylethylalamine (PEA), tạo cho ta một cảm giác yêu đời, sinh động và tăng tuổi thọ.


Bên Anh quốc, người ta nhận thấy các tu sĩ Tin Lành Giáo thường sống lâu hơn tu sĩ Cơ Đốc giáo, và họ kết luận là sự có vợ của tu sĩ Tin Lành đã đóng góp vào việc kéo dài tuổi thọ.


Một bằng chứng nữa là phụ nữ góa thường đoản thọ hơn phụ nừ có gia đình.


Với lợi điểm như vậy, vợ chồng già chắc cũng nên năng quan hệ tình ái. Không cần phải là sự giao hoan vũ bão mà sự vuốt ve mơn trớn, sự gần bên nhau, những lời nói , những điệu bộ gợi tình vào những lúc bất chợt cũng đủ tăng thân ái và làm nhịp tim ai nhẩy lên cao.


Bác sĩ Robert N. Buttler, chuyên gia về các vấn đề của người cao tuổi, gọi đây là ngôn ngữ thứ hai của tình yêu, đối lại với ngôn ngữ thứ nhất, thúc đẩy, đòi hỏi, cấp bách về sinh lý. Theo ông ta, một chút lãng mạn với nhau cần được tiếp diễn mặc dù thú vui xác thịt vì lý do nào đó đã không còn. Cũng nên nhớ là các vị lão niên, lượng nam kích thích tố Testosterone thấp, nên rất cần một chút lãng mạn để gợi tình.
Kết luận


Mặc dù với nhiều cố gắng, hôn nhân trong tuổi cuối đời của đồng hương hiện cũng có nhiều khó khăn, trở ngại. Đã có nhiều trường hợp chia cách không ngờ. Người ta cho là do hoàn cảnh xã hội, địa lý. Cam ngọt trồng đất lạ thành chua.


Nhưng nhìn cho kỹ, phần lớn những dang dở là do có ít tương đồng. Chỉ là tình yêu hơn là tình bạn, nên khi hóa chất say đắm của yêu đương phai nhạt, thì tìm yêu đương mới lạ để thay thế. Để rồi không có ” vợ già canh ngọt, gừng càng già càng cay”. Không cùng “vợ chồng khi nồng khi nhạt”.


Các cụ ta quan niệm tình nghĩa vợ chồng như một ĐẠO: Đạo vợ chồng. Ca dao dân gian thường vang lên:


” Đạo vợ chồng chẳng dễ đổi thay,


Dẫu làm nên võng giá hay rủi ăn mày cũng cứ theo “.


Mong rằng đó cũng là TÌNH NGHIÃ vợ chồng, cái Tình Nghĩa “chồng như giỏ, vợ như hom”, dù đã cũ.

[More]

Dấu Hiệu Báo Động Tuổi Già

Dấu hiệu báo động tuổi già

1-Ta gia nhập các câu lạc bộ thể dục, thể thao tốn khối tiền nhưng chẳng bao giờ lui tới.
2-Trong cơ thể chỗ nào cũng thấy đau nhức, không sử dụng được; duy có một chỗ không đau nhức thì lại không dùng được.
3-Ánh sáng lóe từ đôi mắt tưởng như rất tinh anh nhưng lại là do nắng phản chiếu lên mặt kính hai tròng.
4-Ngồi chơi tài bàn tổ tôm mà khi rút cây bài, ngả xuống ù cũng mệt thở dốc.
5-Thấy bầy trẻ mới ngày nào còn để chỏm mà bây giờ đã vào tuổi trung niên.
6-Mình biết hết mà chẳng ai để ý, chẳng ai thèm hỏi ý kiến.
7-Cuốn sổ tay chỉ thấy địa chỉ và tên bác sĩ, tên thuốc đau nhức, bài thuốc bổ thận;
8-Kiếng đeo trên mắt mà cứ đi tìm kính để đi kiếm kính.
9-Thấy mỗi buổi tối là thời gian sao mà quá dài và tẻ nhạt, chỉ mong chóng sáng để lại ngồi đó mong tối đến;
10-Tắt đèn là để tiết kiệm điện chứ không phải vì lãng mạn với người phối ngẫu.
11-Ngồi trên chiếc ghế đu đưa mà không có sức để đưa đẩy chiếc ghế.
12-Nhà ở thì quá rộng, tủ thuốc lại quá chật.


[More]

Tuổi già hư cấu và sự thực



Đã có một thời kỳ, và ngay cả bây giờ, người ta đã gán ghép cho người già một số những điều hoang tưởng, những một nửa sự thật có dụng ý kỳ thị, phân chia.

Họ xếp người già vào một nhóm: “nhóm người đầu bạc, răng long, suy yếu; nom ai cũng giống ai, cũng vô dụng, hết sài, không tự lo thân được. Rồi lại sức khoẻ kém, nay nằm nhà thương, mai đi bác sĩ, kém trí nhớ, lú lẫn. Họ sống cô đơn xa lánh mọi người; luôn luôn than buồn chán. Họ không còn hấp dẫn cả về hình dáng lẫn tình dục. Đừng đả động tới họ nữa. Hãy cứ đưa họ vào viện dưỡng lão hay tập trung vào các nông trại cho tiện việc”.


Trên truyền thông báo chí, chỉ thấy hình ảnh những người thuộc lớp trẻ đầy sinh lực hấp dẫn, khoẻ mạnh. Nhóm người già được mời vào mép chiếu của các sinh hoạt xã hội, gia đình.



Tuổi già có đáng để mang nhiều hư cấu như vậy không?


Tuổi già có đành an phân: già là vô dụng, là không hoạt động, không thích nghi, kém khả năng tình dục, là gánh nặng cho gia đình, cộng đồng!



Đã có nhiều dẫn chứng khoa học, nhiều thống kê cụ thể phủ nhận những huyền thoại, nh��ng vô nghiã đó.


1- Đâu có phải những người trên 60 tuổi đều già cả rồi.-


Ở nhiều quốc gia, để cân bằng sự cung cầu nhân lực và do hoàn cảnh kinh tế, tới một tuổi nào đó người đi làm được cho về hưu, nhường công việc cho lớp người sanh sau. Họ được khuyến dụ là về để vui thú điền viên, là đã đóng góp, trả nợ đầy đủ cho xã hội.


Việt nam hiện nay đàn bà 55 tuổi nghỉ việc, đàn ông làm thêm tới 60. Bên Hoa Kỳ, trước đây khi đáo hạn tuổi 65 thì bắt buộc nghỉ việc. Nhưng từ năm 1986, sự bắt buộc về hưu này được hủy bỏ vì có tính cách kỳ thị tuổi tác, chẳng khác gì kỳ thị chủng tộc, nam nữ.


Từ cái tiêu chuẩn hành chánh đó nhiều người đã suy luận ra một khi về hưu là họ đều già rồi. Và hãy gom họ vào một nhóm những người có nhiều khó khăn về mọi phương diện từ sức khỏe, tài chánh, đến sinh hoạt trong những năm cuối cuộc đời. Ngay cả người về hưu cũng nghĩ là: thôi đã đến lúc ta nghỉ cho khỏe thân già. Rồi còn dành thì giờ dối già, đi chơi đây đó chứ..


Về phương diện y khoa, không có một chứng cớ sinh lý học nào hỗ trợ cho ý kiến coi về hưu là lúc cơ thể bắt đầu già. Có người bẩy tám mươi tuổi mà nom còn dắn dỏi, nhanh nhẹn; trái lại có người mới gần năm chục mà nom đã hom hem, móm mém, tóc bạc khô, đi đứng không vững.


Hóa già là do thể chất, gen di truyền, cách thức sống, ảnh hưởng của môi trường quyết định. Thực ra rất khó mà xác định là ở khoảng thời gian nào của đời người ta sẽ bắt đầu già. Có người nói là ta già từ khi còn ở trong lòng mẹ.


Người ta đã cố gắng đo một số mốc sinh lý để coi xem già bắt đầu từ tuổi nào, như là đo sức mạnh của bắp thịt, chỉ số huyết áp, giảm thính, thị giác, dung tích của phổi… nhưng kết quả chưa rõ ràng. Thôi thì cứ đành nhận là khi nào ta cảm thấy già thì ta già vậy.



2- Mấy người già, người nào cũng như nhau.


Có ý kiến cho rằng mọi người đều già đi theo cùng một phương thức, do đó họ đều giống nhau. Tất cả đều có bề ngoài già nua như nhau, suy nghĩ, hành động già như nhau và chỉ cần thấy một người già thì coi như ta đã hình dung ra cả nhóm.


Thực ra, có rất nhiều khác biệt trong sự hóa già. Và ở mỗi cá nhân, sự hoá già đều rất cá biệt. Diễn tiến này chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố: gen di truyền, chủng tộc, giống tính, địa phương, khí hậu, nếp sống, hoàn cảnh gia đình, xã hội.


Cho nên có người già suy yếu, bệnh tật chỉ chờ chết. Có người già khoẻ mạnh, còn hoạt động đều đặn. Có người sống rất phóng khoáng, lại có người mang nhiều định kiến, bảo thủ. Có người sống lẻ loi, tự cô lập thì có nhiều người giữ giao tiếp với bạn bè cũ mới, đi đó đi đây.


Sự già giữa người nam, người nữ cũng không giống nhau. Người nữ có tuổi thọ cao hơn, nhân số nhiều gấp rưỡi người nam già. Họ hay bị bệnh trầm kha hơn như các bệnh tiểu đường, cao huyết áp, phong thấp, loãng xương. Đáp lại thì người nam già thường hay bị tai biến động mạch não, bệnh tim.


Vì sống lâu hơn lão nam nên nhiều lão nữ lâm vào cảnh góa bụa, ít có cơ hội tái giá. Người nam ít tuổi kiếm đối tượng trẻ hơn, mà người nam nhiều tuổi hơn mình thì mình chẳng chịu. Lãnh về để thay tã cho ổng suốt ngày hay sao!. Nên các lão bà nhiều sầu muộn đơn côi,ï tương đối kém lợi tức nên cảnh già thường đạm bạc, thiếu thốn.


Thành ra cho rằng người già đều như nhau thì có vẻ nông nổi, cả tin.



3- Không phải hễ già thì yếu đuối, kém sức khoẻ.


Thường thường khi nói tới giaø là ta cứ gắn vào chữ yếu.


Họ đều già yếu rồi. Người thì đi xe lăn, người chống gậy, lủng lẳng mang thêm bình dưỡng khí để thở, một tháng đi bác sĩ vài ba lần, nhập bệnh viện thường xuyên, đâu còn sức lực gì.


Nhiều khi cả thầy thuốc cũng giải thích cho bệnh nhân là các vấn đề của sức khoẻ đều do sự chồng chất của những ngày sinh nhật gây ra.


Câu chuyện nghe được trong một phòng mạch: Một ông già than phiền sao cái cánh tay bên trái cứ nhức mỏi hoài. Bác sĩ bảo: cụ đã 80 tuổi rồi thì nó vậy đó, bệnh già mà. Cụ chỉ đau như vậy thôi là may lắm rồi, còn muốn gì hơn. Bệnh nhân lại hỏi thế tại sao tay phải tôi cũng 80 tuổi lại không nhức?


Thực tế ra, đa số người cao tuổi đều có một sức khoẻ tốt, đều duy trì tình trạng tự cáng đáng các nhu cầu hàng ngày, duy trì khả năng làm việc. Đối với người cao tuổi, duy trì bình thường các chức năng cũng quan trọng như làm sao để không bị bệnh hoạn.


Tám mươi phần trăm các vấn đề sức khỏe của người già có thể tránh hoặc trì hoãn được khi cơ thể được chú ý chăm sóc, đồng thời sự hoá già cũng đến từ từ, nhẹ nhàng hơn.


Xin nhớ sự hóa già và bệnh hoạn đôi khi trùng hợp nhưng không có liên hệ nhân, quả.



4- Tránh thành kiến hễ già thì nói trước quên sau.-


Có nhiều thành kiến gán cho sự hóa già là nguồn gốc của sự nói trước quên sau, trí tuệ trì trệ. Có thời kỳ, ngay cả các nhà khảo cứu cũng cho là về già trí tuệ suy yếu.


Nhưng mới đây nhiều bằng chứng kết luận là trí tuệ không giảm với tuổi cao, ngoaị trừ khi người già đồng thời mắc một số bệnh thần kinh đặc biệt và ngoại trừ ta chẳng may bị chứng bệnh sa sút trí tuệ. Nói chung thì sự sáng suốt của con người còn duy trì được tới tuổi ngoài 70.


Bác sĩ Robert Butler, nhà lão khoa có uy tín đã từng xác định: “Cứ tin tưởng rằng khi sống lâu trí tuệ ta trở thành suy thoái là điều không đúng. Hãy thử để con người sống trong cô lập, không giao tiếp với ngoài đời, thụ động, thì chỉ một thời gian ngắn họ sẽ trở thành bất thường, không có lý trí, lệ thuộc, buông suôi. Trái lại, nếu sống năng động với nhiều thử thách thì không những tinh anh hơn mà còn thọ lâu, khoẻ mạnh hơn”.


Có thể là cũng như ở lứa tuổi khác, người cao tuổi có giảm đi phần nào trí nhớ ngắn hạn, như đột nhiên quên tên người quen, quên một sự kiện vừa xẩy ra hay không nhớ để chiếc chìa khóa xe ở đâu, hoặc không làm hai việc một lúc. Nhưng với sự tập luyện lập đi lập lại, sửa soạn và dành thì giờ rộng rãi cho công việc, làm việc theo thứ tự ưu tiên, thì khả năng trí óc của họ sẽ khá hơn.




5- Già không có nghĩa là cô lập


Xưa kia, có một thời gian ngắn ngủi, người cao tuổi được mời lên chiếu trên của các sinh hoạt cộng đồng xã hội trong vai trò hướng dẫn, cố vấn, nhờ ở những kinh nghiệm khôn ngoan từng trải của họ.


Rồi với sự thay đổi quan niệm sống cộng thêm sự lên xuống của cung cầu kinh tế, người già xuống cấp, đôi khi bị coi là gánh nặng. Họ được đẩy vào bóng tối của xã hội.


Ngay cả trong giới thần tiên, sự già cũng có số phận hẩm hiu. Câu chuyện nữ thần sắc đẹp Aurora yêu say mê Thimonus, xin Thượng Đế được kết hôn cùng chàng, xin cho chàng được sống mãi mãi. Nhưng quên không xin cho chàng được khỏe mạnh, sung sức. Nên khi chàng vừa già vừa yếu đuối, hết hấp dẫn, không thỏa mãn được nhu cầu của nàng thì nàng bèn cô lập, ruồng bỏ người yêu xưa.


Nhiều người cứ nghĩ là khi về già, họ sẽ sống thu mình, xa cõi nhộn nhịp, tranh đua, giảm bớt liên lạc với bạn bè. Để có thì giờ vật lộn với lãng tai, mắt kém, với táo bón, kém tiêu hóa, với đau nhức mình mẩy, với huyết áp cao… Thêm vào đó, cố tri lần lượt ra đi, rồi cuối cùng người bạn đường cũng giã từ, vĩnh biệt càng khiến họ có nhiều nguy cơ rơi vào cảnh cô lập, lẻ loi, buồn thảm.


Sự thực thì sau những mất mát, chia tay, con người nói chung, người cao tuổi nói riêng, cũng đều rơi vào thời gian tiếc nhớ. Thời gian này dài ngắn tùy hoàn cảnh, tùy khả năng ứng phó của mỗi cá nhân. Nhưng bình thường thì chỉ vài năm là ta đã có thể thích nghi được.


Bạn bè không bỗng chốc tan hàng hết. Người muốn an hưởng tuổi vàng không thiếu gì cách để thực hiện ý muốn của mình. Tìm bạn mới ở các nhóm họp người già. Tham gia những sinh hoạt chung của cộng đồng, lối xóm. Trao đổi thư tín, tin tức về vấn nạn, giải đáp khó khăn của đồng tuế. Thăm nom vui chơi cùng cháu chắt. Tránh những ưu tư không cần thiết.


Có rất nhiều cơ hội để người cao tuổi làm cuộc sống cuối đời vui nhẹ nhàng, thoải mái. Chỉ cần một chút tích cực, một vươn tay ra tiếp nhận. Cũng cần cảnh giác với những gán ép lệ thuộc.



6- Người già không phải là vô dụng.


Mới đây, phóng sự của hai ký giả Đức Hà, Lý Hoàng Thu, nói về một người Việt Nam 66 tuổi khai trương vào ngày 15-4-2000 một tiệm hớt tóc ở thị trấn San José, khiến độc giả đi từ ngạc nhiên đến cảm phục người phụ nữ đó.


Bà ta một tay phụ vói chồng mang mười đứa con còn thơ ấu từ miền quê hương nhỏ bé, thiếu thốn mọi thứ, sang miền đất phì nhiêu vật chất, tinh thần. Gây dựng cho các con đầy đủ, dư hoàn cảnh để nghỉ ngơi vui hưởng cảnh già nhưng bà ta nói: “Tôi sẽ làm việc cho đến khi nào không còn đủ sức nữa mới thôi “. Bà còn nói rằng bà có mấy đứa cháu thành ra bà muốn làm gương cho các cháu thấy rằng phải luôn luôn cố gắng học hành và làm việc để trở thành những con người tốt cho xã hội cho dù bao nhiêu tuổi đi nữa. Bà là một trong nhiều người già không vô dụng.


Cái quan niệm già vô dụng, không sản xuất có lẽ chỉ đúng phần nào vào thuở nhân loại phải lấy sức người kéo cầy thay trâu, khuân mang những tảng đá khổng lồ lên xây Kim Tự Tháp, kéo thuyền rồng cho vua chúa ngự cảnh dọc sông.


Có lẽ người già không còn dẻo dai để làm những việc tay chân như vậy nhưng ngay khi đó cũng có những người tuổi cao ngồi tham mưu, đóng góp tâm sức, thực hiện kế hoạch chung cho quốc gia. Giảm đi một vài chức năng của cơ thể không đồng nghĩa với mất khả năng lao động.


Ngày nay với sự tiến bộ kỹ thuật, khoa học, nhu cầu sức lao động chân tay đã bớt và người khiếm khuyết một vài chức năng của cơ thể vẫn còn hữu dụng trong nhiều lãnh vực. Ấy là chưa kể nhiều người già phục vụ những công việc không chính thức, không sổ sách lương bổng như thiện nguyện, giữ trẻ, săn sóc thân nhân, phối ngẫu đau ốm.


Đồng thời cũng có nhiều dẫn chứng rằng người cao tuổi làm việc chuyên cần, đáng tin cậy, ít gây ra tai nạn, ít bị ảnh hưởng của những căng thẳng vu vơ. Một vài phản ứng chậm chạp, đắn đo, một số chậm hiểu tính toán đôi khi lại giúp hoàn tất công việc an toàn hơn



Rồi còn những hoang tưởng như già hết duyên, khô cạn tình dục, chấm dứt cuộc đời trong nhà dưỡng lão, cả ngày chỉ ngồi nuối tiếc quá khứ, ám ảnh với kinh kệ, sẽ là nạn nhân của lạm dụng người già, của tội phạm.


Ôi, sao mà nhiều gán ghép độc địa!

[More]

Su lao hoa

Con người sinh ra, trưởng thành, suy yếu bệnh hoạn rồi từ trần, đó là chu kỳ ” Sinh Lão Bệnh Tử” theo luật thiên nhiên mà ta đã chấp nhận từ nhiều ngàn năm.


Nhưng ngày nay, với tiến bộ của khoa học, con người đã có khả năng ảnh hưởng tới hai trong bốn giai đoạn của chu kỳ trên. Đó là Lão và Bệnh. Con người hiện đại có khả năng kéo dài tiến trình lão hóa, làm chậm sự lão suy, làm nhẹ bớt nhiều chứng bệnh liên hệ tới tuổi già và loại hẳn một số bệnh gây tử vong trước đây. Tóm lại, con người ngày nay có thể tăng tuổi thọ và sống bình an, thoải mái suốt giai đoạn cuối của cuộc đời. Giai đoạn mà người Tây phương gọi là Tuổi Vàng (The Golden Years) . Bí quyết để đạt đến mục đích đó là tìm hiểu tuổi già và các phương pháp tổ chức lối sống cho có hiệu năng để hưởng trọn tuổi già.
[More]

Nói về tuổi hạc tuổi vàng

Vào khoảng đầu thế kỷ hai mươi, sống được tới tuổi 40, là các cụ ta đã mở tiệc ăn mừng “tứ tuần đại khánh”. Mà sống tới 70 tuổi thì cả là một sự hiếm có: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy”.


Cho nên, chúc tụng nhau, ngoài sự giàu có, ruộng cả ao liền, con cái tốt lành “như tranh, như rối “, các cụ còn chúc nhau “Bách niên giai lão”. Với vua chúa, thì được kính chúc ” Thánh Thọ vô cương” hoặc ” Thọ tỷ Nam Sơn”.
[More]

Con người với sự trường sinh

Nhà Xuân vừa mở thọ diên,


Chén pha Giếng Cúc, bàn chen Non Đào.


Nguyễn Huy Tự .



Giấc mộng trường sinh, bất tử đã được ghi nhận từ thuở hoang sơ, khi con người còn ăn lông ở lỗ, trong huyền thoại thần tiên, trong niềm mê tín dân gian, trong nguồn cảm hứng xuất thần của văn nhân thi sĩ hay luận lý của triết gia. Tân, Cựu Ước, kinh Koran cũng có nhắc tới nguồn nước trường sinh.
[More]

THAY ĐỔI NGŨ QUAN

Khi về già, nghe và nhìn là hai giác quan có nhiều thay đổi nhất.



1- Thay đổi của mắt và thị giác


Chỉ với sức nặng gần 30 gram (1/4 ounce), đường kính 3 phân ( 1 inc), nhưng cặp mắt mang lại cho ta hơn 90% những dữ kiện mà ta cần đến trong đời sống hàng ngày.


Mắt thu những tín hiệu ánh sáng rồi chuyển lên não bộ để được phân tích, tổng hợp thành sự vật cho thị giác. Diễn tiến đó được thực hiện qua những giai đoạn như sau:


Tia sáng đi qua giác mạc, đồng tử, thủy tinh thể, rọi lên võng mạc, rồi được giây thần kinh mắt chuyển lên não bộ.


Giác mạc là phần hình tròn trong suốt phía trước nhãn cầu. Nó khúc xạ ánh sáng vào trong mắt trên thủy tinh thể rồi hội tụ ánh sáng lên võng mạc. Giác mạc không có mạch máu và rất nhạy cảm với cảm giác đau.


Đồng tử hay con ngươi là một lỗ mà sự lớn nhỏ được điều khiển bởi tròng mắt, một cơ quan gồm có những thớ thịt với chất phẩm làm ta có mắt đen, xanh hay xám. Đồng tử điều chỉnh lượng ánh sáng vào mắt.


Thủy tinh thể điều chỉnh hình ảnh đưa vào võng mạc. Nó được cấu tạo bởi nhiều lớp chất đạm chùm lên nhau .


Võng mạc có nhiều tế bào thần kinh thu nhận ánh sáng từ sự vật, chuyển lên não để tổng hợp thành thị giác.


Một ngày nào đó, khi cầm tờ báo lên để đọc, ta phải đưa tờ báo xa ra một chút mới nhìn rõ, thì ta có cảm giác là mình đã ở tuổi già. Thật vậy, ở tuổi này, không một cơ quan nào thay đổi mau chóng, rõ rệt, ở mọi người như sự thay đổi của đôi mắt.


Phần trắng của mắt đổi thành màu ngà nhạt với nhiều mạch máu kéo qua kèm theo những li ty khoáng chất đọng lên trên. Ánh mắt tinh anh của tuổi tráng niên không còn nữa vì những tế bào gây mầu mất đi.


Giác mạc vốn cong trở thành dẹp làm chứng loạn thị trầm trọng hơn và ta phải mang kính điều chỉnh.


Thủy tinh thể, trong suốt và dẻo thuở còn trẻ, trở thành đục và cứng vì có phủ thêm nhiều lớp chất đạm. Đường kính thủy tinh thể tăng làm thị lực xa dần, ta phải đưa tờ báo xa tầm mắt hơn mới đọc được.


Chứng đục thủy tinh thể, do sự thay đổi cấu tạo của chất đạm là một bệnh của mắt, nhưng cũng có thể xẩy ra với tuổi già. Áp xuất ở trong con mắt tăng lên, gây ra chứng tăng nhãn áp


Cơ thịt của tròng mắt teo đi, giới hạn độ mở của con ngươi, ánh sáng vào mắt giảm, kết quả là để nhìn rõ ràng, ta cần nhiều ánh sáng hơn.


Với tuổi già, mạch máu nuôi võng mạc kém, tế bão võng mạc có thể bị tiêu hủy, tạo ra những điểm mù trong thị khu.


Thị giác bắt đầu yếu từ tuổi 45. Khả năng nhìn gần kém cũng như điều tiết cặp mắt với khoảng cách khác nhau đều khó khăn. Vì thế khi một lão bà đang chăm chú khâu vá, có người tới gần chào, bà ta ngẩng đầu lên, ngó nghiêng và phải mất cả chục giây tập trung trước khi bà nhìn rõ người chào.


Người cao tuổi có khó khăn phân biệt mầu sắc: mầu xanh thành đậm hơn và mầu vàng lợt đi. Họ nhìn các mầu của cầu vồng như mờ dần, khiến sự vật không còn đường nét và chiều sâu. Muốn đọc hàng chữ nhỏ phải mang kính lão. Nhiều người, vốn cận thị, khi về già không cần mang kính cận, vì nhãn cầu đổi từ hình bầu dục sang tròn trịa hơn, hình ảnh lại hiện lên giác mạc.


Tầm mắt thu hẹp, trí nhớ thị giác giảm, khả năng thị giác ưóc lượng khoảng cách không chính xác. Cơ thịt của tròng mắt teo đi, giới hạn độ mở của con ngươi, ánh sáng vào mắt giảm, kết quả là để nhìn rõ ràng, ta cần nhiều ánh sáng hơn.


Trong bóng tối, người già cần thời gian lâu hơn để điều chỉnh thị năng, nhưng cũng hay bị chóa mắt khi ánh sáng quá chói. Do đó họ gặp trở ngai khi lái xe ban đêm.


Ngoài những thay đổi về chức năng kể trên, mắt còn những thay đổi bề ngoài làm ta nhiều khi sững sờ: vết rạn chân chim, mi mắt sưng, túi mỡ dưới mắt, mắt có quằng đen, da nhăn… Những thay đổi này không ảnh hưởng gì tới việc nhìn sự vật, cuộc đời, nhưng là dấu hiệu cho ta thấy ta đang về già.


Thi sĩ coi đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn. Khoa học gia thì con mắt là những tuyến di chuyển hóa và điện năng lên óc. Nhà dinh dưỡng, đầu bếp dùng cặp mắt như thước đo món ăn thích hợp. Con người thường chúng ta thì chỉ quan tâm tới mầu mắt nâu hay xanh, hình dáng mắt bồ câu hay lá dăm …Cho tới khi thấy thị giác bắt đầu kém thì mới ưu tư suy nghĩ. Mất hay giảm thị năng có thể đưa ta tới sự thu mình với xã hội, tự cô lập rồi rơi vào tình trạng trầm cảm, buồn rầu.


2- Thay đổi Thính giác


Một trong những giác quan quan trọng móc nối ta với ngoại cảnh là thính giác.


Từ những âm thanh nhẹ nhàng như tiếng gió thổi tới tiếng ầm ì liên tục của xe cộ chạy trên xa lộ, tai mang cho ta những biến chuyển của không gian, vũ trụ. Không nhận được những âm thanh này, con người trở nên mất định hướng, ngơ ngác.


Cấu tạo của tai rất giản dị và gồm ba phần: tai ngoài, tai giữa và tai trong.


Âm thanh được vành tai hướng vào màng nhĩ, làm màng rung động và chuyển những rung động đó vào ba xương nhỏ ở tai giữa.


Tai trong là một tập hợp chất lỏng và nhiều tế bào thần kinh, một số có lông ở đầu, để thu nhận tín hiệu âm thanh từ tai giữa, chuyển lên óc, tạo ra thính giác.


Thính giác có ba mức độ:


Nghe âm thanh hậu trường ( như tiếng động trong thành phố ), giúp ta nhận diện không gian quanh mình, mà khi mất đi khiến ta như lạc lõng, cô đơn.


Âm thanh tín hiệu báo cho ta một bất thường, nguy hiểm có thể đến như tiếng hú của con chó sói. Mất âm thanh này đưa ta vào tình trạng bất an, cảm giác thiếu thốn.


Âm thanh biểu tượng cho ta hiểu ý nghiã của ngôn ngữ, lời nói mà sự mất mát làm ta mất truyền thông, đưa đến cô lập trong xã hội.



Diễn biến những thay đổi ở tai thường từ từ, nhẹ nhàng, không đau đớn. Thay đổi bắt đầu ngay khi mới sanh, và âm thầm liên tục trong suốt cuộc đời con người.


Có những thay đổi quan trọng ảnh hưởng tới khả năng nghe, thì cũng có những thay đổi về hình dáng, chỉ có tác dụng thẩm mỹ.


Vành tai mềm, chẩy xuống, dường như dài hơn , lớn hơn, đồng thời lại lưa thưa ít sợi lông mọc ra, nhất là ở đàn ông.


Trong lỗ tai, ráy tai nhiều và cứng, bít lối làm giảm thính lực ở 1/3 người già.


Màng nhĩ mềm, mỏng, ba xương nhỏ ở tai trong hoá vôi, cứng, tất cả đều kém rung động khi làn sóng âm thanh dội vào.


Những tế bào lông ở tai trong bắt đầu hư hao, gây ra sự nghễnh ngãng hay điếc, các mạch máu nuôi tai cũng nhỏ dần


Về khả năng thính giác thì nhiều nhà khoa học đều cho là có một sự mất mát không thể tránh được khi con người trở về gìa. Ở Mỹ, khoảng một nửa số người già trên 50 tuổi có khiếm khuyết về thính giác mà đa số đều có thể điều chỉnh được.


Một khiếm khuyết thính giác vĩnh viễn, không chữa được của người gìa là mất khả năng nghe âm thanh có tần số cao mà nguyên nhân là do sự thoái hóa của các tế bào lông ở tai trong. Đây là hội chứng nghễnh ngãng của tuổi già (Presbycusis), bắt đầu từ tuổi 20-30, nhưng rõ rệt vào tuổi 50. Một phần ba người trên 65 tuổi bị chứng này, và khi tới tuổi 85 thì quá nửa mắc phải. Sự giảm này không phục hồi và chữa trị được nên muốn nghe ta phải mang máy khuếch âm. Có ý kiến là sự giảm này cũng xẩy ra khi ta thường xuyên nghe tiếng động quá lớn.


Người cao tuổi đôi khi nghe được tiếng nói nhưng không phân biệt được ý nghĩa, nên ta cần hơi lên cao giọng một chút, đồng thời nói chậm dải, rõ ràng, với câu ngắn và nhìn vào mắt họ.


Giảm hoặc mất thính giác có thể điều chỉnh được bằng giải phẫu hay mang trợ thính cụ. Có điều cần nhớ là trợ thính cụ không mang lại toàn bộ khả năng nghe mà chỉ khuếch đại âm thanh



3- Thay đổi khứ u và vị giác


Tạo hóa cho ta những khả năng để nhìn thấy ánh sáng và sự vật, để nghe những âm thanh, tiếng động, để cảm thấy sự thay đổi của hơi nóng và sức ép của không khí. Nếm và ngửi là hai khả năng để nhận ra và phân biệt hương vị của hóa chất. Mất khả năng ngửi một bông hồng thơm hoặc nếm một bát canh cải ngọt , là giảm biết bao nhiêu thú vui của cuộc đời .


Chức năng của hai giác quan này hỗ trợ và bổ túc cho nhau.


a-Khứu giác giúp ta khám phá những phân tử li ti mà hầu hết các sinh vật phát tiết ra dưới dạng mùi vị. Khả năng này rất cần thiết cho động vật để tự vệ, để săn mồi và trong nhiều trường hợp, trong việc yêu đương.


Ngoài việc phân tích mùi của sự vật, khứu giác còn giúp ta biết những nguy hiểm hay hạnh thông của ngoại vật hoặc gợi ra những kỷ niệm thích thú thân yêu. Mùi khí đốt tỏa ra từ bếp lò. Hương nước hoa quen thuộc của người yêu.


Khả năng ngửi không phải là do cái cục thịt nhô ra giữa mặt, mà là do cả triệu những tế bào nằm trong xoang mũi. Những tế bào này thu nhận kích thích chuyển lên vùng khứu giác ở não để phân tích thành những mùi khác nhau. Bình thường mũi có thể phân biệt được 18 mùi. Nhưng nếu được huấn luyện, ta có thể ngửi được cả ngàn mùi hương khác nhau.


Khả năng phân biệt các loại mùi tốt nhất lúc tuổi 20-40, rồi giảm dần với số tuổi già.Vào tuổi bẩy tám mươi, 60% ngươì già mất đi một phần nào khả năng ngửi nhất là các mùi hương thoảng nhẹ. Nguyên nhân của sự mất mát này chưa được biết rõ: có thể là hệ thống thần kinh ngửi bị hư hao với thời gian, cũng có thể là do ảnh hưởng của sự nhiễm trùng hoặc tác dụng của các hóa chất, ô nhiễm không khí, thay đổi thời tiết nóng lạnh bất thường. Một chứng cớ là khả năng ngửi ở những người ghiền thuốc lá giảm rất nhiều .



b-Vị giác giúp ta thưởng thức những vị khác nhau của vật chất, thực phẩm. Lưỡi là bộ phận thực hiện sự nếm.


Lưỡi được chia ra nhiều vùng, kể từ đầu lưỡi trở vào,với những tế bào hình nụ để phân biệt các vị ngọt, mặn, chua, đắng. Khi mới sanh, các nụ nếm này có ở hầu như khắp miệng. Nhưng khi ta được 10 tuổi thì chỉ còn lại ở 4 vùng mà số lượng không thay đổi với tuổi cao. Khi mất đi, chúng được thay thế mỗi hai tuần lễ.


Chân nụ nối tiếp với thần kinh ở dưới. Từ đầu nụ nhô ra một sợi lông mà khi chạm vào hóa chất lỏng sẽ cho ta biết vị của hóa chất đó.


Trong năm giác quan, vị giác thay đổi rất ít với tuổi già. và hiểu biết về sự thay đổi này cũng nghèo nàn. Ngoài ra, để phân biệt được vị, cần có một số lượng hoá chất cao hơn tiếp xúc với nụ nếm. Có nhận xét cho là sự phân biệt vị mặn và ngọt kém đi ở tuổi già. Nguyên nhân sự giảm này là do các nụ vị giác teo, nước miếng ít đi, vệ sinh răng miệng kém.


Đồng thời, vị giác cũng thay đổi trong một vài bệnh hoặc do tác dụng phụ của một số dược phẩm.



4-Thay đổi xúc giác


Đây là sự nhận biết khi đụng chạm, sờ mó vào vật gì.


Cảm giác này mang lại tình người khi chung đụng, diễn tả một an ủi, một hỗ trợ, một thoa dịu cũng như làm nhẹ bớt sự đau đớn tâm thân. Nó cũng giúp ta nhận biết, phân biệt hình thù, phẩm chất của sự vật.


Khả năng nhận thức được sự vật cũng như đặc tính của chúng bằng cách sờ hay đụng chạm phát triển ngay từ lúc ta mới sinh. Giác quan này giữ vai trò rất quan trọng trong đời sống con người, nhưng ta biết rất ít về các thay đổi này ở tuổi già.


Một cách đại cương, có ba loại xúc giác: cảm giác về sức ép, cảm giác đau, cảm giác với nhiệt độ nóng lạnh.


Khi có vật gì đụng vào cơ thể, một số tế bào thần kinh thông báo cho ta hay là đã có một tiếp xúc, một áp lực vào ta. Khi về già, một số tế bào này thoái hóa, làm cho cảm xúc này giảm đi.


Xúc giác về đau cũng thay đổi .Cảm giác này được gây ra do sự đè nặng, sự kéo căng hay sức nóng vào cơ thể. Người cao tuổi cần nhiều kích thích hơn để biết rằng mình bị đau, cũng như cảm giác đau nhiều khi ít hơn so với sự thiệt hại về thể xác. Hơn nữa, khả năng thích nghi với sự đau thay đổi tùy từng người: có người khuếch đại sự đau thì cũng có người đè nén, chịu đựng sự đau.


Những hiểu biết về cảm giác nóng, lạnh ở người cao tuổi cho biết ở tuổi này, con người ít chịu lạnh. Hạ chi nhất là bàn chân bị ảnh hưởng của sự lạnh rất mau khi nhiệt độ thời tiết giảm, gây ta chứng giảm nhiệt rất nguy hiểm và có thể đưa tới tử vong.


Các cảm xúc này được hoàn tất nhờ nhiều bộ phận tiếp nhận nằm rải rác trên da. Khi có sự thay đổi về cấu trúc, chức năng nuôi dưỡng của da thì xúc giác thay đổi. Thời gian để nhận định, phân tích , đáp ứng các tín hiệu qua sự sờ mó sẽ lâu hơn. Hậu quả là một vài nguy cơ tai nạn có thể xẩy ra. Một dây nịt ngực quá chặt mà ta không cảm thấy sẽ làm trầy da ngực. Dây giầy cột quá chặt làm cản trở máu lưu thông ở bàn chân. Nằm hoặc ngồi cùng vị trí lâu quá gây thương tích cho da thịt. Kém cảm giác với độ nóng đưa tới phỏng da.


Khi xúc giác đã mất đi thì rất khó phục hồi. Mà người già lại càng cần sự vuốt ve trìu mến của người thân yêu hơn, để sưởi ấm tình già.

[More]

NHỮNG THAY ĐỔI VỀ HÌNH DÁNG BỀ NGOÀI.

Thay đổi vẻ dáng bên ngoài của cơ thể đôi khi là những chỉ dấu báo hiệu sự đến của tuổi già. Và thường thường con người sẽ có những ngỡ ngàng, những ưu tư trước các thay đổi đó.


1-Thay đổi về lông-tóc


Với khoa học, lông và tóc giúp bảo vệ cho đầu khỏi bị tác dụng nguy hại của ánh nắng mặt trời, ngăn ngừa sự xâm nhập vật lạ vào mắt, mũi. Nhưng với con người, tóc là món đồ trang trí quý giá, một biểu tượng của cá tính. Do đó tóc được chăm sóc rất chu đáo. Khi tóc thay đổi với tuổi già thì nhiều người thấy không vui, tìm đủ mọi cách để che đậy.


Về cấu tạo, tóc là một tập hợp những tế bào khô đã chết được đẩy lên khỏi da từ chân tóc. Trong chân tóc có mạch máu, dây thần kinh, tuyến tiết chất nhờn. Trung bình trên đầu có hơn 100,000 sợi tóc và mỗi ngày có khoảng một trăm sợi rụng đi. Trong sợi tóc có tế bào tiết ra chất mầu khiến tóc đen, bạch kim hay hung hung đỏ.


Cho tới nay chưa có giải thích thỏa đáng cho những thay đổi của tóc khi về già như thay dỗi về số lượng, mầu sắc và phẩm chất của tóc. Mặc dù những thay đổi này không mang lại ảnh hưởng xấu cho sức khỏe nhưng con người lại rất quan tâm đến.


a-Tóc bạc


Về mầu sắc, sự kiện tóc bạc hay tóc hoa dâm là những dấu hiệu sớm của tuổi về già.


Tóc bạc bắt đầu từ hai bên thái dương rồi lan lên đỉnh đầu. Mới đầu, nó còn có tính cách muối tiêu, trắng đen lẫn lộn, sau đó thì muối nhiều hơn tiêu. Sở dĩ tóc thành trắng là vì loại tế bào sinh hắc tố (melanin ) giảm đi, tóc thành không có mầu, ánh sáng phản chiếu lên khiến tóc như trắng.Cho đến nay khoa học chưa chứng minh tại sao tế bào này giảm đi cũng như chưa tìm ra cách ngăn chặn sự giảm này.Có ý kiến cho là vì thiếu sinh tố loại B, kém dinh dưỡng hoặc do căng thẳng tâm thần, buồn phiền quá mức.Vì không ngừa, không chữa được nên con người che đậy , thay đổi sự bạc trắng này bằng mỹ phẩm nhuộm tóc, mang tóc giả.


Tuy được coi là một dấu hiệu sớm của tuổi về già, nhưng sự kiện bạc tóc chỉ xẩy ra ở khoảng 65% người cao tuổi, còn 35% thì hoặc tóc không bạc hay chỉ bạc khi tuổi rất cao. Có nhiều trung niên, 25-30 tuổi tóc đã bạc. Thành ra sự bạc tóc này không phải là chỉ dấu của sự hóa già của các bộ phận trong cơ thể, cũng như không có ảnh hưởng gì tới sức khỏe hay tới tuổi thọ. Còn huyền thoaị Ngũ Tử Tư, sau một đêm trầm suy, sáng dậy tóc đã trắng sóa cũng vẫn chỉ là huyền thọai, không có căn bản giải thích khoa học .



b-Rụng tóc


Rụng tóc là một hiện tượng bình thường xẩy ra ngay từ khi còn trẻ. Nhưng với tuổi cao, tóc rụng nhiều hơn nhất là khi da đầu bị nhiễm trùng, hoặc do ảnh hưởng của một vài dược phẩm, chất phóng xạ trị liệu, vài loại thực phẩm. Trung bình, mỗi ngày có khoảng 100 sợi tóc rụng. Lông nách và lông mu cũng chịu cùng số phận.


Ngoài ra, khi về già tóc khô, ròn dễ rụng vì các tuyến nhờn kém họat động.


Ở nữ giới, lông tóc mọc ở cằm trên khi số lượng kích thích tố nữ giảm vào thời tắt kinh và gây nhiều ngượng ngùng cho quý bà. Ta có thể nhổ, cạo hoặc dùng các chất hóa học để làm mất những lông này. Ngoài ra khi qúy bà dùng thuốc có nam kích thích tố, thì lông tóc cũng mọc ra ở mặt và thân thể, nhưng khi ngưng thuốc thì lông tóc ngưng mọc.



2- Thay đổi về da


Với một diện tích 17 thước vuông, da là bộ phận lớn nhất của cơ thể. Về phương diện cấu tạo, da đã làm nhiều kiến trúc sư xây dựng ngạc nhiên vì tính cách bền bỉ, đàn hồi và nhậy cảm của nó.


Da là đồng minh bảo vệ cơ thể chống ngoại vật xâm lăng như vi khuẩn, cát bụi, những phũ phàng của thời tiết nóng lạnh, thay đổi của thiên nhiên. Nhưng da cũng tố giác tuổi già với nhiều thay đổi không đẹp như da nhăn nheo, khô cằn, mềm xệ hoặc những vết đồi mồi…


Về cấu tạo, da có ba lớp chính: biểu bì, bì và hạ bì với các chức năng khác nhau.


Biểu bì là lớp ngoài cùng gồm tế bào tiết chất cứng gelatin để bảo vệ da; tế bào sinh mầu làm da có mầu và chặn tia tử ngoại xâm nhập cơ thể. Biểu bì được liên tục thay thế và trong suốt cuộc đời 70 tuổi, ta mất đi tới 20 kí lô tế bào da.


Bì là một mạng lưới tế bào với hai chất đạm elastin và collgen làm da được bền bỉ và co giãn. Bì còn có nhiều mạch máu, giây thần kinh, tuyến mồ hôi, tuyến nhờn và chân tóc.


Hạ bì nằm dưới cùng, có nhiều tế bào mỡ, sợi thần kinh, mạch máu và được dùng như để gắn hai lớp bì và biểu bì vào cơ thể.


Sự hóa già mang đến nhiều thay đổi không đẹp lắm cho hình dáng con người ở cả ba lớp da. Biểu bì hư hao nhiều hơn là tái tạo, mô mới kém tổ chức khiến biểu bì mỏng manh. Tế bào mầu , chất elastin và collagen giảm, tuyến mồ hôi và tuyến nhờn teo, giảm hoạt động. Những thay đổi đó đưa tới các hậu quả sau đây:


a-Da nhăn.


Sự xuất hiện của lớp da nhăn đầu tiên trên cơ thể làm nhiều người hoảng hốt vì với da nhăn làm ta như già đi. Da nhăn nheo vì chất collagen giảm, chất elastin tăng lên, da mất tính đàn hồi. Chúng ta có thể đo sự mềm dịu đàn tính của da bằng cách kẹp lớp da giữa hai ngón tay trong ít giây, rồi thả ngón tay, tính xem mất mấy giây để lớp nhăn trở lại bằng phẳng. Thường thì một hai giây, nhưng ở người trên 60 tuổi, thì phải mất vài chục giây.


Da nhăn nheo, không có nghĩa là những cơ quan cốt yếu trong cơ thể cũng suy mòn đi. Người trẻ tuổi mà da không được chăm sóc thì cũng vẫn nhăn như thường


b.- Da khô


Ở người cao tuổi, sự bài tiết mồ hôi giảm vì những tuyến mồ hôi, tuyến nhờn ít đi hoặc kém hiệu năng. Do đó da trở nên khô, ng��a nhất là về mùa lạnh.


c- Thay đổi khả năng điều hoà thân nhiệt


Dưới lớp bì và biểu bì là một lớp mô mỏng chứa nhiều chất mỡ để chống sự thất thoát nhiệt độ cơ thể. Ở người cao tuổi, lớp mỡ này mất đi, nhất là ở mu bàn tay, mặt và gan bàn chân. Các cảm giác ngoài da cũng kém , nhất là cảm giác đau nên người cao tuổi hay bị phỏng ở bàn chân.


Số lượng những mạch máu nhỏ dưới da của người cao tuổi ít hơn nên người gìa chịu đựng độ lạnh kém người trẻ. Khi nhiệt độ giảm dưới mức an toàn, người già có thể bị lạnh cóng.


d- Chậm lành vết thương


Xúc giác giảm cộng thêm sự suy yếu của hệ thống miễn nhiễm kéo dài độ nhạy cảm của da khi tiếp xúc với hoá chất kích thích. Người già hay bị tổn thương nơi da. Khả năng lành da cũng rất chậm vì máu nuôi dưỡng da bớt đi.


Nhìn chung, những thay đổi theo tuổi già của da xuất hiện rõ nhất ở trên mặt. Vầng trán nhăn nheo với vết rạn chân chim ở duôi con mắt; da mặt mỏng; xương mặt nhô; mạch máu lộ trên da; mí mắt xệ, quầng mắt sậm đen; vành tai to chẩy xuống; cằm nhiều mỡ.



3- Thay đổi về chiều cao


Với tuổi đời chồng chất, con người như co lại, và dáng điệu ngay thẳng hiên ngang lúc trai tráng không còn nữa. Trung bình khi về già đàn ông thấp đi khoảng 2 phân, đàn bà 1,5 phân. Đây là do ảnh hưởng của một số yếu tố như sự giảm nước trong cơ thể, các bắp thịt yếu, thay đổi vóc dáng, xương sống hao mòn và biến dạng. Riêng ở nữ giới, nguyên nhân chính của co ngắn chiều cao vẫn là bệnh loãng xương (osteoporosis).



4- Thay đổi về sức nặng, dung lượng nước của cơ thể


Kết quả của nhiều cuộc nghiên cứu đều xác nhận là, sức nặng của cơ thể tăng lên ở tuổi trung niên rồi giảm xuống lúc tuổi già. Đồng thời, tế bào mỡ tăng và thay thế vào chỗ những tế bào thịt bị tiêu hao vì ta không xử dụng đến chúng.Tế bào mỡ xuất hiện nhiều nhất ở vùng bụng và hông.


Ở tuổi thanh niên, 60% sức nặng của cơ thể là nước. Khi về già chỉ còn có 51%. Nữ giới cũng vậy: từ 51% lúc trẻ xuống 46% lúc về già. Nguyên do là số lượng tế bào chứa nhiều nước mất đi hoặc teo đi


5- Một số những thay đổi khác


Nhận xét chung cho thấy,về già vòng ngực tăng lên, sống mũi và dái tai dài ra một chút. Trên xương đầu thì những khớp nối của xương dính liền lại, xương sọ dầy lên. Móng tay, móng chân mọc chậm, đổi mầu và có những lằn gợn gồ ghề.



Kết luận


Trên đây là những thay đổi bình thường xẩy ra trong tiến trình lão hoá.


Ngày nay khoa học đã chứng minh là ta có thể làm những thay đổi này chậm lại bằng cách sống theo quy luật thiên nhiên, tránh lạm dụng những chất có hại cho cơ thể, vận động cơ thể đều đặn cho khí huyết lưu thông, gân cốt thư dãn.


Cũng như giữ cảnh lòng luôn luôn an lạc, như lời người xưa : “Lạc giả trường thọ, ưu giả dị yểu”.

[More]

Chăm Sóc Cha Mẹ Già



Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC

Nhân ngày “Từ Phụ”, Lang tôi xin cùng quý thân hữu đi vào một vấn đề có tính cách gia đình. Vì nhìn gần xa, thấy các vị đàn anh và một số bạn đồng tuế đang từ từ vướng mắc. Và con cháu cũng rất ưu tư suy nghĩ.


Đang ngồi họp, Vân được cho hay có điện thoại khẩn cấp. Chị vội đứng lên, về phòng. Bà hàng xóm nơi mẹ Vân ở, cho hay bà cụ vừa được đưa vào nhà thương. Bà cụ té ngã. Vân vào cáo lỗi với ông chủ rồi xuống lấy xe lái vào bệnh viện.
[More]

Người Già và Phúc Lợi Xã hội

Bs Nguyễn Y Đức


 

Ước vọng sống lâu vẫn là điều mong muốn của con người từ ngàn xưa. Nó đứng trên cả tiền tài, danh vọng, đông con nhiều cháu. Chả thế mà thứ dân khi gặp nhau thì trang trọng chúc bách niên giai lão là thỏa mãn rồi. Còn vị quyền cao phủ chùm đất nước thì không bằng lòng với bách niên, mà đòi dân đen phải tung hô vạn tuế! vạn tuế! hoặc muôn năm! muôn năm!


Nhưng trăm người trăm ý.
[More]

Người Cao Tuổi Với Chăm Sóc Lâu Dài



Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC


Chuyện dân gian Nhật Bản, thế kỷ thứ XI kể rằng:


“Từ thuở xa xưa, dân chúng trong bộ lạc vẫn có một phong tục là phế bỏ người già khi họ tới tuổi 60.


Năm đo,ù có một lão nhân được hai đứa con khênh trên một cái ghế bành để mang lên bỏ trên ngọn núi hoang.


Dọc đường, cứ được một đoạn thì ông lão lại bẻ một cành cây. Hai anh con bèn hỏi bố: ” Tại sao bố phải bẻ cành cây như vậy? Bộ bố muốn đánh dấu đường về sau khi chúng con để bố trên núi hay sao”?. Ông già không trả lời mà chỉ lẩm bẩm ngâm: “Bẻ cành, ta giúp con ta; Thân già có thác cũng đà hy sinh”.
[More]

Tình bằng hữu – bạn già



Bs Nguyễn Ý Đức

Tục ngữ Mỹ có câu nói: “Tiếp tục kiếm thêm bạn mới nhưng hãy duy trì bằng hữu cũ, vì bạn mới là bạc mà bạn cũ lại là vàng”.


Cụ Nguyễn đình Chiểu của chúng ta trang trọng bạn xưa với: ” Trong đời mấy bậc cố tri, Mấy trang đồng đạo, mấy nghì đồng tâm”


Nhiều người tuổi cao cũng có chung ý nghĩ là, khi về già, ngoài việc có một sức khỏe tốt, một gia đình êm ấm, thì tình bạn lâu năm là một hành trang quý giá mà họ đã mang theo được cho tới giai đoạn cuối của cuộc đời.


Bạn hữu là gì?
[More]

Tựa

Chúng ta sống trong sự biến đổi, sống với sự biến đổi. Một đại hiền triết cổ Hi Lạp, một trong những vị mà người ta gọi là những triết gia trước Socrate, dạy rằng “người ta không bao giờ rửa chân hai lần ở một dòng suối”. Vì nước suối chảy đi và khi ta xuống suối rửa chân lần thứ hai, mặc dù vẫn chỗ ấy, trên hòn đá ấy, nhưng không còn là nước cũ. Lời nói của đại hiền Hi Lạp đã cho ta hai cách nói siêu dụ, thông thường đến nỗi rằng ta nói luôn tới ‘dòng đời’ và ‘dòng lịch sử’ mà không còn nghĩ đến gốc nguồn từ một điểm đã hai ngàn rưởi năm xưa, ở một nền văn minh bên trời Tây đã chết.

Cuốn sách này của Bác sĩ Nguyễn Ý Đức nói về một sự thay đổi trong thời chúng ta trên dòng đời và dòng lịch sử, là sự già lão. Và tác giả muốn một ông thầy già viết cho cuốn sách vài lời gọi là Tựa.


Thực ra thì sách An Hưởng Tuổi Vàng này cũng chẳng cần phải giới thiệu vì đã đáp ứng một nhu cầu rất lớn, phải nói là mỗi ngày một lớn hơn trong xã hội Việt Nam vì số người già tăng trưởng rất nhanh, trong ba phần tư thế kỷ vừa qua. Không phải vì chiến tranh kéo dài thiếu mười sáu tháng đầy ba mươi năm đã làm mất đi một số lớn những người tuổi trẻ, trai nhiều hơn gái trong dân số và sự gia tăng tỉ số người già chỉ giả tạo. Ngay cả nếu ta bổ xung trên giấy tờ những tuổi bị khuyết trên biểu đồ tháp dân số theo tuổi của nước ta rồi so với tháp tuổi năm 1925 hay 1930, thì thấy ngay sự khác biệt: hình tháp xưa có một cái ngọn dài và nhọn hoắt, còn tháp nay tuy thót giữa ( ảnh hưởng của chiến tranh) nhưng đáy rộng ( vì sự sinh sản qúa mạnh trong phần tư thế kỷ vừa qua, có thể gọi cho vui là sự nở rộ của tý nhau khi chiến cuộc chấm dứt ở mặt trận và rút về phòng the); còn các tuổi già và chưa già, từ năm mươi trở lên thì đông đảo với một bề ngang đáng kể trên hình tháp tuổi dầy dặn hơn xưa nhiều. Sự kiện này nói nôm na có nghĩa là các cụ nhiều hơn, nhiều gia đình có ít là một hai và có thể đủ bốn ông bà nội, ngoại và số gia đình tứ hay ngũ đại đồng đường không còn hiếm như ngày xưa. Sự sống lâu trên bảy mươi tuổi chỉ còn “cổ lai hi” như một câu văn sáo mà đời văn minh đã ném vào thùng rác của lịch sử như thanh Ngư Trường Kiếm và cái búi tóc củ hành.


Tôi không nói rằng ngày xưa không có người sống lâu. Bỏ những chuyện huyền thoại, dầu là phương Đông như chuyện Bàn Cổ của Trung Hoa ( mà ta thường gọi là ông Bành Tổ) hay Methusalem trong Kinh Thánh và cả truyền thuyết về tuổi thọ của các vua thời Hồng Bàng của ta, chúng ta đều có biết và có thấy tận mắt một vài vị lão trượng trong làng hay trong một vài gia đình quen thuộc, chẳng những là bảy tám mươi mà có khi tới hơn trăm tuổi. Thời nào, ở đâu, trừ khi còn ăn lông ở lỗ trong những vùng trinh nguyên chưa khám phá, những vùng mà ngày xưa khi chưa có sự hiểu biết gì về y khoa khoa học ta gọi là “ma thiêng nước độc” hay “lam sơn chướng khí” cũng có thể có một vài người, nhờ “thể chất” nghĩa là nhờ di truyền qua gen hệ, nhờ những điều kiện sinh sống và các cách sinh hoạt tương đối không thường, sống lâu và chết già hơn các người chung quanh. Sự đồn đại tăng tuổi thọ cũng có, vì lý do này nọ tuỳ theo văn hoá nhưng sự sống lâu của một số cụ là thực có, và thực đáng quý vì các cụ không những là sự hãnh diện của gia đình, mà còn là hy vọng đúng và là những gương sáng cho toàn thể nhân dân nữa. Nhưng ngày xưa sống lâu như các cụ hiếm lắm. Nhân sinh thất thập… Còn ngày nay chẳng những số các cụ nhiều hơn, mà tỉ số các cụ trong xã hội tăng lên.


Tại sao có nhiều người già hơn trong dân số ngày nay? Tại sao nhân dân Việt Nam già lão hơn? Vì trong bách kỷ vừa qua có những tiến bộ song song trên bốn diện: kinh tế, công chính, giáo dục và y tế. Trong một bài tựa bắt buộc là phải ngắn hơn sách, tôi không thể đi sâu hơn về bất cứ một diện nào trong bốn diện ấy và nếu nói về cả mọi mặt thì khác gì là viết lịch sử chiều dài của quốc dân Việt Nam. Phần lớn quý vị đọc sách có lẽ cũng chỉ tìm hiểu những điều thực tế mà chính mình có thể dùng được có lợi cho bản thân. Sách của BS Nguyễn Ý Đức nhắm vào hai mục tiêu, thuộc hai diện cuối cùng trực tiếp quan hệ đến sự sống lâu một cách khoẻ mạnh. Và vì rằng sức khoẻ là sự sống với một cơ thể, sinh lý và tâm thần bình thường và nếu có thể hơn bình thường một chút là điều kiện không thể không có để hưởng thụ hạnh phúc, nên An Hưởng Tuổi vàng có thể và một phần nào phải được coi là cuốn sách đầu tiên để sống yên vui với các người thân trong tuổi già.


Dĩ nhiên rằng như thế chưa phải là không còn vấn đề gì đâu. Sống lâu, già cả là tốt lắm và không phải là dễø. Nghệ thuật sống già cả là một vấn đề khác và cũng không dễ. Về cả hai đường, cái vốn liếng đắp xây từ lúc trẻ vô cùng quan trọng. Và đây là lời cuối cùng của tôi, không phải với các cụ đồng tuế hay cao niên hơn tôi, mà là với các người trẻ tuổi. Sự giữ gìn sức khoẻ, sự trao dồi văn hoá, sự di dưỡng tâm tính, sự tôn kính và thương yêu mọi người trong gia đình, sự bao dung trong tinh thần dân chủ với tất cả mọi người, là những điều mà tôi nghĩ là quan trọng ngang nhau để có thể sống lâu và an hưởng tuổi vàng với sự kính trọng của làng nước, sự kiêu hãnh của con cháu và chắt, chút và với sự vui vẻ trong nội tâm của mình. Nhưng phải biết sống như thế từ lúc mới lớn lên và biết suy nghĩ càng sớm càng hay.


Vào khoảng phần tư đầu tiên của thế kỷ vừa chấm dứt, khi tôi sinh ra, hy vọng được sống trung bình của người Việt Nam chỉ có hai mươi lăm năm. Ngày nay đời sống trung bình của người dân trong nước là vào khoảng 60 đến 65 năm. Với những người Việt Nam sinh đẻ ở Hòa Kỳ, Tây Âu hay Nhật Bản, sự sống có thể trung bình lên tới 70 năm, chỉ thua kém những người bản xứ chừng dăm ba năm thôi. Những khám phá mới của y học lại cho phép tiền phóng rằng người ta có thể sống già hơn nhiều nữa, và một số người có điều kiện đã có thể tính đến chuyện sống không tật bệnh đến ngoài một trăm năm mươi tuổi. Sự hiểu biết về sinh học tiến bộ một cách nhanh chóng không ai lường trước được và nếu có một đạo sĩ tu tiên nào trở lại được cõi đời này ở Hoa Kỳ hay Anh, Pháp,Đức thì sẽ phải nói rằng nằm mơ cũng không thể tưởng được rằng cái mộng trường sinh nay đã có linh đơn để trở thành sự thật. Nhưng trước hết, trong đời này không còn đạo sĩ nữa. Và vấn đề ngày nay là sống lâu như thế để làm gì? Ai cấp dưỡng cho một cách vui vẻ và đầy đủ để an hưởng tuổi vàng lâu dài gần một trăm năm nếu ta không lo trước ngay từ bây giờ.



Bác sĩ TRẦN NGỌC NINH


Cựu Giáo sư đại học Sài gòn và Vạn Hạnh

















































MỤC LỤC


CON NGƯỜI VỚI SỰ TRƯỜNG SINH.
NÓI VỀ TUỔI HẠC,TUỔI VÀNG.
SỰ LÃO HÓA
TUỔI GIÀ HƯ CẤU VÀ SỰ THỰC
TỰA
Những thay đổi cơ thể khi về già
NHỮNG THAY ĐỔI TRONG CƠ THỂ KHI VỀ GIÀ.
NHỮNG THAY ĐỔI VỀ HÌNH DÁNG BỀ NGOÀI.
THAY ĐỔI NGŨ QUAN
Vài vấn đề ưu tiên sức khỏe tuổi già
CAO NIÊN MÀ PHONG ĐỘ
TẬP LUYỆN CƠ THỂ
VÀI VẤN ĐỀ ƯU TIÊN CHO SỨC KHOẺ
VẤN ĐỀ AN TOÀN CỦA NGƯỜI CAO TUỔI TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY
Dược phẩm-Dược thảo
GỐC TỰ DO VÀ CHẤT CHỐNG OXY-HOÁ.
MỘT VÀI DƯỢC THẢO THƯỜNG DÙNG
SỰ DÙNG DƯỢC PHẨM Ở NGƯỜI CAO TUỔI
Tình cảm người cao tuổi
BẠC ĐÃI NGƯỜI CAO TUỔI
CHĂM SÓC CHA MẸ GIÀ
CÒN LẠI ĐÔI TA
KHÔNG ĐỀ
NGƯỜI CAO TUỔI VỚI ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH
SỰ THĂNG TRẦM CỦA TUỔI GIÀ
THƯƠNG TIẾC.
TÌNH BẰNG HỮU-BẠN GIÀ
TÌNH MUỘN VẪN LÀ TÌNH
HAI THẾ HỆ, MỘT TẤM LÒNG
ÔNG BÀ VÀ CÁC CHÁU.
[More]